Ngày thứ hai (04-11-2024) – Trang suy niệm

03/11/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai XXXI Thường Niên – Năm B

BÀI ĐỌC I: Pl 2, 1-4

“Anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Đức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong đức mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có lòng thương xót nào, thì anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui, được cùng chung một lòng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau; chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh, hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình; mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 130, 1. 2. 3

Đáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.

1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời.

ALLELUIA: Mt 11, 29ab

-Các ngươi hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 14, 12-14

“Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: “Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn”. Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

04/11/2024 – THỨ HAI TUẦN 31 TN

Th. Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô, giám mục

Lc 14,12-14

YÊU THƯƠNG VƯỢT TRÊN TẤT CẢ

“Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14,13-14)

Suy niệm: Sống trên đời, khi có những dịp phải đãi tiệc, thì khách mời là “bạn bè, anh em, bà con hoặc láng giềng” cũng là chuyện bình thường. Chúa Giê-su cho thấy vấn đề ở chỗ có người chỉ mời những kẻ lắm của nhiều tiền “để được đáp lễ”. Từ nhận xét đó, Ngài dạy chúng ta hướng các việc đời thường, như mời tiệc, lên tầm mức cao cả của nhân đức bác ái, yêu thương. Yêu thương thì không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, cũng không tính toán kiểu ‘hòn đất ném đi, hòn chì ném lại’. Đức Giê-su dạy “hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” để nhấn mạnh rằng yêu thương thì không loại trừ ai, và không mong chờ phần thưởng nào khác ngoài hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

Mời Bạn: Mẹ thánh Tê-rê-xa đã cúi mình phục vụ những người “nghèo nhất trong số những người nghèo”, những người bị xã hội loại bỏ, và Mẹ cảm nhận được hạnh phúc vì được phục vụ Chúa nơi họ. Càng cho đi một cách vô vị lợi, bạn sẽ càng nhận lãnh gấp trăm ngay ở đời này phần thưởng mà bạn sẽ lãnh nhận cách trọn vẹn “trong ngày các kẻ lành sống lại”.

Sống Lời Chúa: Bạn hãy là người đi bước trước trong việc thực hành bác ái mà không tính toán thiệt hơn. Và bạn dâng việc lành đó để cầu nguyện cho các đẳng linh hồn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa muốn con sống bác ái, cho đi cách vô vị lợi. Xin Chúa giúp con sống quảng đại với hết mọi người, nhất là những người thấp cổ bé miệng, những người đau khổ để đáp lại lời Chúa mời gọi. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

“Bánh ít đi, bánh quy lại” hay “Có đi có lại mới toại lòng nhau”:
đó vẫn được coi là cách cư xử bình thường giữa người với người.
Hơn nữa ai làm như vậy còn được coi là người biết cách xử thế.

Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu mời ta vượt lên trên lối cư xử đó,
không ngừng lại ở chỗ tôi cho anh, để rồi anh cho tôi (do ut des).
Ngài dạy cho ông chủ tiệc biết nên mời ai và không nên mời ai.
Có bốn hạng người không nên mời dự tiệc:
bạn bè, anh em, bà con họ hàng, hay láng giềng giàu có.
Ngài đưa ra lý do: “kẻo họ mời lại ông, và ông được đáp lễ” (c.12).
Hơn nữa, Ngài còn nói đến bốn hạng người nên mời dự tiệc:
những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c.13).
Đức Giêsu khuyên nên mời những hạng người này,
vì họ không có khả năng mời lại hay đáp lễ (c.14).

Như thế Đức Giêsu cho ta tiêu chuẩn để mời khách dự tiệc.
Không mời những người quen biết, thân thích, giàu sang,
để mời những người nghèo hèn, những kẻ chẳng được ai mời.
Qua đề nghị khó thực hiện này của Đức Giêsu,
Ngài đụng đến một khuynh hướng tự nhiên mà ít người để ý.
Đó là khi làm điều tốt cho ai
ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.
Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn.
Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân đơn giản.
Nói chung để làm một hành vi hoàn toàn vô vị lợi là điều rất khó.
Chỉ ai thành thật đi vào lòng mình mới thấy mình ít khi cho không.
Đức Giêsu muốn hạn chế khuynh hướng này.
Ngài mời chúng ta ra khỏi thế giới của những người quen biết,
không kết thân với những người giàu có và thế lực,
để mong họ đem lại lợi nhuận hay làm ô dù cho ta.
Ngài đưa ta đến với những người nghèo và không có địa vị,
những người không có khả năng mời lại hay đáp lễ.
Có khi những người đó chẳng ở đâu xa.
Họ nằm ngay trong số bạn hữu, bà con, anh em, hay hàng xóm.
Khi mời họ dự tiệc, trân trọng họ như khách quý,
chúng ta làm sống lại những mối tương quan tưởng như không còn.

 Đức Giêsu mời ta thanh luyện ý hướng của mình khi làm điều tốt,
trở nên siêu thoát và từ bỏ những tìm kiếm tự nhiên quy về mình.
Bài Tin Mừng đơn sơ này có thể tạo một bước ngoặt trong đời Kitô hữu.
Chúng ta sẽ được nếm một mối phúc mới:
Phúc cho ai làm một việc tốt mà không được ai biết đến và đáp lễ.
Họ sẽ được Thiên Chúa “đáp lễ” trong ngày phục sinh (c. 14).

Cầu nguyện:

Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

4 THÁNG MƯỜI MỘT

Lòng Thương Xót Của Chúa Cha

Trong lời nguyện hiến tế của Ngài, Chúa Giêsu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ cho khỏi ác thần (Ga 17,15). Như vậy, lời nguyện hiến tế vừa ca ngợi sự tốt lành của hiệp nhất, vừa là lời khẩn xin tha thiết để mọi sự dữ chống lại hiệp nhất đều có thể được thắng vượt. Do đó, đây cũng là một lời nguyện hoà giải. Sự hoà giải này diễn ra ở những cấp độ khác nhau: nơi chính bản thân mỗi người, giữa các cá nhân, giữa các Kitô hữu, giữa người Kitô hữu và những người ngoài Kitô giáo, giữa các dân tộc và các quốc gia, giữa các khu vực đã phát triển và các khu vực kém phát triển trên thế giới.

Hoà giải là một kinh nghiệm sâu xa thuộc lãnh vực tâm linh con người. Trong hình thức cao nhất của nó, nó là hình ảnh người Cha nhân lành mở rộng vòng tay ôm lấy đứa con bất trị. Anh ta là nạn nhân của cám dỗ muốn xây dựng một thế giới hoàn toàn bởi sức riêng mình, bất cần Cha. Cái trống rỗng của sự chọn lựa ấy, nỗi cô đơn nhức nhối ấy, và hậu quả là phẩm giá của anh cũng chẳng còn … Tất cả đã gây ra những vết thương cần phải được chữa trị tận căn. Anh cần phải quay về và kinh nghiệm lại lòng thương xót của Cha. Vâng, sự hoà giải phải cắm rễ sâu trong cuộc sống chúng ta: hoà giải với Thiên Chúa, với chính mình, với nhau, với các cộng đoàn Giáo Hội khác, bắt đầu bằng một sự biến đổi sâu xa trong tâm hồn mình.

Hoà giải còn mang một chiều kích xã hội nữa. Nó vượt qua những rào cản ngăn cách các tầng lớp xã hội và vượt qua sự xung khắc giữa các quốc gia. Nó tiêu diệt các hình thức kỳ thị đầy bất công. Trên hết, nó ưu tiên tôn trọng phẩm giá độc đáo của mỗi người và tích cực bảo vệ các quyền của con người ở bất cứ nơi đâu mà các quyền ấy bị đe doạ.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 04/11

Thánh Carôlô Borrômêô. Giám mục

Pl 2, 1-4; Lc 14, 12-14.

Lời Suy Niệm: Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặc, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc; vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại. (Lc 14,12-14) 

          Trong đời sống xã hội loài người, người ta thường muốn được gần gũi những người giàu sang, hoặc có nhiều thế lực, để dễ bề cậy dựa khi cần. Và phương tiện để dễ tiếp cận chính là những bữa ăn thân mật. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Người muốn con cái Người cần quan tâm đến những người nghèo khó bệnh tật, bởi vì chính những bữa ăn đó sẽ giúp cho sự sống của họ, và chính những người ấy là hiện thân của Người, mà ngày sau khi Người quang lâm, Người sẽ đáp lễ.

          Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người tín hữu chúng con đây luôn biết thực hành những lời trong kinh “Thương xác bảy mối”, hầu ngày sau tất cả chúng con đều được vui hưởng hạnh phúc trong Nước Trời. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 04-11

Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ

Giám Mục (1538 – 1584)

Xuất thân từ dòng họ quí phái Lombardo, thánh Carôlô Borrômêô sinh tại Arôna ngày 2 tháng 10 năm 1538, là con thứ trong gia đình, tuổi trẻ đạo đức đã sớm định hứơng cuộc đời Ngài để phục vụ Giáo hội, Ngài đạt bằng tiến sĩ luật ở Paris năm 1559, nhưng tháng giêng năm sau đã triệu vời về Roma. Ở đó Ngài được đặt ngay làm Hồng Y với những trách và cao trọng trong Giáo hội gồm cả chức vụ Tổng Giám mục Milan, và dù còn trẻ cũng đã được trao cho trách nhiệm làm quốc vụ khanh tòa thánh.

Trong quyền hạn này, Ngài kiểm soát mọi giao dịch chính thức của Đức Giáo hoàng, bao gồm nhiều cuộc đám phán khó khăn liên quan đến việc hoàn thành công đồng Tridentinô từ năm 1560-1564. Công đồng kết thúc, Ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565 Ngài mới được đức giáo hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, Ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu Ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa đấng kế vị là Đức Giáo hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.

Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân công đồng Tridentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành giám mục “kiểu mới” của công đồng Tridentinô, Ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác Ngài đã chuyển các sắc lệnh của cộng đồng ra hành động trong Giáo hội công giáo, Ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị giáo tỉnh và mười một hội nghị giáo nhận.

Ngài kiên trì viếng thăm toàn giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của Ngài đã là ảnh hưởng quyết định của Ngài, Ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, Ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính Ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ Ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là Ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi Ngài đang cầu nguyện năm 1569.

Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.

Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính Ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của Ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của Ngài, Ngài đã hiến mình làm hiến tế, bô thí tất cả những gì Ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính Ngài cũng ngủ trên sàn nhà, Ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, Ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định.

Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức tổng giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, Ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng: dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên Ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.

Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ Ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy Ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, Ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, Ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của Ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho Ngài.

Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói: “Kìa cơn mê của giám mục thánh Modène”. Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng Ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, Ngài cười khi người ta khuyên Ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, Ngài lịm vào trong sự tôn thờ.

Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làmcho cả Milan đau đớn. Sủ gia viết truyện đời Ngài nói: “Đêm ấy, ít có ai ngủ được”. Đức Phaolô V đã phong thánh cho Ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

04 Tháng Mười Một

Quo Vadis, Domine?

Ðêm trước ngày vào cơ mật viện để bầu Giáo Hoàng, Hồng Y Karol Wojtyla đã chuẩn bị hành lý để trở về Krakow, tổng giáo phận của ngài. Thế nhưng, ngài đã không trở lại Krakow nữa. Ngày thứ hai, 16 tháng 10 năm 1978, vị Hồng Y 58 tuổi này đã được bầu làm Giáo Hoàng và lấy tên là Gioan Phaolô II. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Ba Lan, là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Italia kể từ 450 năm qua, và tính từ 150 năm trở lại, thì ngài là vị Giáo Hoàng trẻ nhất. 

Trong khi chuẩn bị cho bài giảng Chúa Nhật đầu tiên kể từ lúc được bầu làm Giáo Hoàng, Ðức Gioan Phaolô II đã nghĩ đến tác giả của quyển tiểu thuyết giả sử nổi tiếng “Quo vadis, Domine?” là ông Henryk Sienkiewicz, một văn sĩ và đồng thời cũng là một nhà ái quốc Ba Lan. Qua tác phẩm này, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã so sánh tâm tình của mình với vị Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô như được ghi lại trong tác phẩm “Quo vadis,Domine?”, “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Theo tác giả quyển tiểu thuyết giả sử, thì có lẽ thánh Phêrô thích ở lại quanh quẩn bên bờ hồ Genezareth hơn là đến giữa trung tâm của đế quốc La Mã để gặp không biết bao nhiêu chống đối và bách hại. Giữa lúc vị Giáo Hoàng đầu tiên toan tình trốn khỏi La Mã để trở về quê hương mình, thì ngài gặp lại Chúa Giêsu hiện ra đang đi ngược chiều với ngài. Ngạc nhiên về sự xuất hiện của Chúa, thánh Phêrô đã hỏi: “Quo vadis, Domine?” nghĩa là “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Và Chúa Giêsu đã trả lời như sau: “Ta đang đi đến La Mã để chịu đóng đinh một lần nữa”. Hiểu được ý Chúa, Phêrô đã quay trở lại La Mã và ngài ở lại đó cho đến khi chịu đóng đinh.

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Carolô Borremêô và mừng bổn mạng một cách đặc biệt của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Mãi mãi tên Carolô gắn liền với tên tuổi và vận mệnh của Ðức Thánh Cha. Hơn ai hết, ngài phải là người kính nhớ và ghi ơn vị thánh bổn mạng nhiều nhất.

Tên thánh được đặt cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa đánh dấu sự đổi đời quan trọng của chúng ta. Từ cái chết trong tội lỗi, chúng ta được tái sinh trong sự sống của Chúa. Hướng đi của chúng ta phải là hướng đi tới Chúa, không thể là bước thụt lùi.

Mang lấy tên thánh Carolô, Wojtyla đã quyết tâm hướng cuộc đời của mình tiến tới trong phục vụ và hy sinh như như chính thánh giám mục Carolô Borremêô. Và khi chọn lấy danh hiệu mới là Gioan Phaolô, vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quyết tâm tiến tới trên con đường mà hai vị tiền nhiệm của mình đã vạch ra… Là người Kitô, chúng ta cũng luôn được mời gọi tiến tới không ngừng trên đường theo chân Chúa Giêsu. Tên thánh mà chúng ta mang lấy trong ngày Rửa Tội, danh hiệu Kitô mà chúng ta được đặt cho phải luôn luôn là một nhắc nhở chúng ta về con đường tiến lên ấy. Chắc chắn con đường ấy không là một con đường rộng thênh thang. Sự tiến lên ấy không là một đà tiến dễ dàng. Phêrô đã quay trở lại La Mã để chịu đóng đinh… Thập giá có lẽ đang chờ đợi chúng ta, chúng ta hãy hiên ngang tiến bước vì đó chính là hướng đi của tất cả những ai mang danh hiệu Kitô.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

 Thứ Hai – Tuần 31 – TN2 

Bài đọc: Phil 2:1-4; Lk 14:12-14

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống tinh thần bác ái của Đức Kitô

            Nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng suy xét thật cẩn thận trước khi làm các việc thiện nguyện trong cộng đòan hay bác ái xã hội. Họ tính tóan xem những công việc này có đem lại những lợi ích cho cá nhân hay cộng đòan của họ; chẳng hạn: cho đi với hy vọng sẽ nhận lại, bố thí để tìm hư danh, chỉ đi cầu nguyện cho người chết nào mà mình hy vọng cũng sẽ được gia đình người chết đến cầu nguyện cho khi mình chết. Các Bài đọc hôm nay đề nghị chúng ta thay đổi hòan tòan những tính tóan ích kỷ này. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô liệt kê những thái độ cần có và việc làm cần thực hiện để sống đức bác ái tuyệt hảo theo gương Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên cần làm ơn cho những người không thể trả ơn đời này; nhưng chính Chúa sẽ giúp họ trả ơn cho chúng ta đời sau.        

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Duy trì sự hiệp nhất trong tinh thần khiêm nhường.

            Thánh Phaolô có lẽ đã có kinh nghiệm nhiều về sự ghen tương, bất hòa, chia rẽ trong các cộng đòan ngài giúp để thành lập. Điều băn khoăn của ngài là làm sao thuyết phục các tín hữu bỏ đi những tật xấu đã ăn sâu vào cuộc đời các tín hữu? Ngài tìm ra chìa khóa duy nhất để giải quyết vấn đề là niềm tin vào Đức Kitô. Theo cách cấu trúc câu, ngài liệt kê liên tục 4 mệnh đề “nếu;” và 4 mệnh đề hậu quả theo sau sẽ tương xứng với 4 mệnh đề “nếu” này. Để dễ phân tích, chúng ta sẽ gom chung chúng lại một trước khi phân tích:

            (1) Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ. Theo thần học về thân thể của Thánh Phaolô, mọi người đều là những chi thể được liên kết trong cùng một thân thể của Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu. Nếu chỉ có một Đầu là Đức Kitô thì chuyện có cùng một cảm nghĩ (froneo = suy nghĩ) là điều tất yếu.

            (2) Nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, hãy có cùng một lòng mến. Bác ái Kitô Giáo phát xuất từ Thiên Chúa lan qua Đức Kitô, và chảy xuống mọi người. Chính Đức Kitô đã xác nhận điều này: “Như Cha đã yêu Thầy thể nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Jn 15:9). Sau đó, Chúa đòi các môn đệ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Jn 15:12). Như thế, chỉ có một lòng mến (agape) đến từ tình yêu Thiên Chúa.

            (3) Nếu chúng ta được hiệp thông trong Thánh Thần, hãy có cùng một tâm hồn (sumpsukos = liên kết trong cùng một tinh thần). Chữ Hy-Lạp dùng ở đây là danh từ kép: “sum = cùng” và “psukos = tinh thần.” Nếu tất cả đều nghe theo sự hướng dẫn của cùng một Thánh Thần, tập thể sẽ hòa điệu và liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một tinh thần. Tinh thần đồng đội hay tinh thần ái quốc là những ví dụ điển hình của sự liên kết tinh thần này.

            (4) Nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, hãy có cùng một ý hướng (to en fronountes) như nhau. Động từ dùng ở đây giống như động từ trong trường hợp (1), điểm khác biệt là ở chỗ là động từ dùng ở thời hiện tại phân từ và dùng với tĩnh từ “en.” Có lẽ trong trường hợp (1), Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh tới một Đầu là Đức Kitô, và trong (4), ngài muốn nhấn mạnh tới một thân thể.

            Nếu các Kitô hữu đã được tháp nhập vào trong cùng một thân thể của Đức Kitô, họ có bổn phận xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô bằng cách: “không được làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.”

2/ Phúc Âm: Làm ơn cho những người không có gì để trả.

2.1/ Hai thái độ sống: công bằng và bác ái:

            (1) Lợi nhuận của người đời: “Ăn miếng trả miếng. Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Một ví dụ thực tế Chúa đưa ra hôm nay: Khi mở tiệc đãi khách, con người thường có khuynh hướng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giàu có, để đáp lễ hay hy vọng sẽ nhận được gì từ họ. Cách cư xử như thế mới chỉ là công bằng mà thôi.

            (2) Bác ái của người môn đệ Chúa Kitô: “Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”

2.2/ Tại sao phải giúp đỡ người nghèo khổ? Vì chúng ta cũng đã từng nhận ơn trong những lúc gian nan tuyệt vọng. Chỉ cần hồi tưởng lại quá khứ đôi chút, chúng ta cũng nhận ra đã không biết bao lần chúng ta đã từng nhận ơn nhưng không từ:

            (1) Thiên Chúa: Ngài cho chúng ta có mặt trong cuộc đời, cho chúng ta hưởng tất cả những gì không do tay chúng ta làm ra, tha thứ tội lỗi khi chúng ta xúc phạm đến Ngài, và không ngừng gởi những người giúp đỡ tinh thần cũng như vật chất khi chúng ta cần đến… Chúng ta đã trả ơn được gì cho Ngài?

            (2) Tha nhân: Nếu không có các quốc gia mở lòng nhân đạo nhận người vào định cư, nếu không có các Hội Từ Thiện giúp đỡ những ngày chân ướt chân ráo đến định cư nơi đất khách quê người, làm sao chúng ta có thể sống ổn định như ngày hôm nay? Chúng ta đã trả lại được gì cho họ?

            Vì chúng ta đã từng nhận nhưng không nên việc cho đi nhưng không là điều phải làm để đền ơn những gì chúng ta đã lãnh nhận trong cuộc đời. Chưa chắc chúng ta đã đền trả đủ theo đức công bằng chứ chưa nói tới chuyện bác ái!

2.3/ Làm cho anh chị em túng nghèo là làm cho chính Chúa: May mắn cho chúng ta là những người được Chúa mặc khải trước cho biết tiêu chuẩn Chúa dùng để phán xét trong Ngày Tận Thế: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy… và mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40, 45). Như thế, có thể nói đức bác ái là yếu tố quyết định để chúng ta vào hưởng nhan thánh Chúa hay sa hỏa ngục.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Để có thể sống đức bác ái trọn hảo, chúng ta phải để Chúa Kitô thấm nhuần tòan bộ con người: từ tư tưởng, suy luận, cảm nghĩ, đến hành động.

            – Để có thể cho đi nhưng không, cần xét mình thường xuyên để đánh giá những gì mình đã nhận nhưng không nơi Thiên Chúa và tha nhân.

            – Để có thể giúp đỡ tất cả mọi người, phải tập nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Đừng bao giờ quên đây là tiêu chuẩn Thiên Chúa sẽ dùng để phán xét. Nếu đã biết trước tiêu chuẩn mà vẫn không chịu làm theo; có sa hỏa ngục cũng là tự do lựa chọn của con người.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************