Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Hai Tuần V Mùa Thường Niên Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: 1 V 8, 1-7. 9-13
“Họ mang hòm bia Thiên Chúa vào nơi Cực Thánh, và mây bao phủ nhà Chúa”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, các kỳ lão Israel, cùng những thủ lãnh các chi họ và những trưởng gia tộc con cái Israel đều tề tựu trước mặt vua tại Giêrusalem, để cung nghinh hòm bia Thiên Chúa từ thành Đavít, tức là thành Sion. Trong ngày đại lễ, nhằm tháng Ethanim, tức tháng bảy, toàn dân Israel tụ họp quanh vua Salomon. Khi các kỳ lão Israel đến, các tư tế liền khiêng hòm bia, và mang hòm bia Chúa đi, mang cả nhà tạm giao ước và tất cả những đồ thánh trong nhà tạm; các tư tế và các thầy Lêvi phụ trách khiêng đi.
Vua Salomon và toàn dân Israel tề tựu quanh ngài, tiến đi với ngài trước hòm bia, và tế lễ vô số chiên bò không kể xiết. Các tư tế khiêng hòm bia Thiên Chúa đặt vào nơi đã chỉ định tại đền thờ, nơi cực thánh, dưới cánh các tượng vệ binh thần. Các tượng này giang cánh trên nơi để hòm bia, và che phủ hòm bia và các đòn khiêng. Trong hòm bia không có gì khác ngoài hai bia đá mà Môsê đã đặt vào hòm ở núi Horeb, lúc Chúa lập giao ước với con cái Israel khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Khi các tư tế lui ra khỏi cung thánh, thì có mây bao phủ nhà Chúa. Vì mây mù, nên các tư tế không thể đứng đó mà thi hành chức vụ: vì vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa. Bấy giờ Salomon nói rằng: “Chúa đã từng phán sẽ ngự trong đám mây. Vậy tôi đã xây cất ngôi nhà làm nơi ở cho Chúa, một nơi vững chắc Chúa ngự đến muôi đời”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 131, 6-7. 8-10
Đáp: Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ (c. 8a).
Xướng:
1) Đây là điều chúng tôi đã nghe nói tại Ephrata, chúng tôi đã gặp thấy nơi đồng ruộng Gia-ar. Chúng ta hãy tiến vào nhà Chúa, hãy sụp lạy trước bệ dưới chân Ngài. – Đáp.
2) Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ, Chúa và Hòm Bia oai quyền của Chúa cùng đi! Các tư tế của Ngài hãy mặc lấy lòng đạo đức, và các tín đồ của Ngài hãy mừng rỡ hân hoan. Xin vì Đavít là tôi tớ Chúa, Chúa đừng hắt hủi người được Chúa xức dầu. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 6, 53-56
“Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
10/02/2020 – THỨ HAI TUẦN 5 TN
Th. Cô-lát-ti-ca, trinh nữ
Mc 6,53-56
CHẠM ĐẾN CHÚA
Và bất cứ ai chạm đến Người, thì đều được khỏi. (Mc 6,56)
Mời bạn nhìn ngắm Chúa Giê-su, Ngài dễ gần, thật dễ mến! Ngài không phải là một Thiên Chúa ngồi ở chốn “xanh kia thăm thẳm tầng trên” để điều khiển từ xa; trái lại Ngài là một Thiên Chúa làm người để ở gần, thật gần với con người. Quả thật, Chúa Giê-su tiếp cận với mọi người kể cả những người bị coi là dơ bẩn, tội lỗi; Chúa muốn đụng chạm thực sự tới những con người cụ thể: Chúa đặt tay lên mắt người mù, lên miệng lên tai người câm điếc để chữa lành họ; với người chết, Chúa cầm tay kéo họ chỗi dậy; người đàn bà bị băng huyết 12 năm kín đáo đụng chạm đến áo Chúa, Chúa cũng sẵn lòng chữa lành bà như lòng bà ước nguyện. Tin Mừng hôm nay đúc kết cung cách gần gũi đó của Chúa khi thuật lại người ta từ khắp nơi tuốn đến với Chúa, và “bất cứ ai chạm đến Ngài đều được chữa lành.”
Bạn ơi, chỉ có ma quỷ mới sợ hãi, bỏ chạy, không dám tiếp cận với Chúa. Còn bạn là “người được Chúa yêu thương” (Rm 1,7) sao lại tránh xa Chúa? Chúa đã nghĩ ra những cách thế để ở gần gũi với chúng ta: sinh xuống làm người như chúng ta, lập Bí tích Thánh Thể để kết hiệp trở nên một với chúng ta, thiết lập Hội Thánh là ngôi nhà chung để đoàn tụ chúng ta, những người con cùng một Cha trên trời, và là anh chị em rất thân mến của nhau. Bạn đừng chần chừ, e ngại, lơ là nữa nhưng hãy đến với Chúa, ở với Ngài, để được “đụng chạm” tới Ngài và để được Ngài thánh hoá.
Sống Lời Chúa: Yêu thương ai thì tìm cách ở gần, ở với người đó; bạn và cộng đoàn của bạn hãy nghĩ ra những cách thế mới để ở gần Chúa nhiều hơn nữa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin Chúa ở lại với con, để con luôn được ở với Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG HAI
Nghệ Thuật Thánh: Thấm Đẫm Cái Đẹp Và Sự Thật
Cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa đã đem lại khả năng diễn dịch mầu nhiệm của Thiên Chúa xuyên qua những dấu hiệu khả giác – để bộc lộ sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người. Với biến cố nhập thể, Ngôi Lời đã đến và trở thành một phần của lịch sử: vị Người-Chúa này đã được nhìn thấy, được nhận biết, được mến yêu. Nghệ thuật Kitô giáo trình bày nhân tính hữu hình của Đức Kitô và các hoạt động thần linh của Người – và với ngôn ngữ sáng tỏ của mình, nó mở ra cho người ta cảm thụ một khía cạnh nào đó trong bản tính khôn tả của Thiên Chúa.
Vẻ đẹp kết hợp với sự thật phản chiếu nơi mọi hữu thể, vén mở bí mật thâm sâu của nó cho con cái loài người. Vì thế, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật được bao phủ bằng những dấu chỉ của vẻ đẹp và chân lý. Bấy giờ, nó sẽ trở thành phổ quát, chân chính và có thể hiểu được đối với mọi người. Người ta đón nhận nó với niềm vui, và họ sẽ rút ra từ nó sức khích lệ để thực hiện những điều cao quí.
Giáo Hội đề cao nghệ thuật đích thực, bởi vì Giáo Hội nhìn thấy trong đó một sự diễn tả căn bản của văn hóa và của nhân tính. Giáo Hội cũng xác tín rằng đức tin có thể và vốn thường tác động trong các tác phẩm nghệ thuật một vai trò thúc đẩy – tác động thúc đẩy này đụng chạm đến trái tim và tâm linh của người ta. Công Đồng Vatican II đã nhận định: “Trong những hoạt động cao quí nhất của tài năng con người, rất đáng kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo mà tột đỉnh của nghệ thuật này chính là nghệ thuật thánh. Tự bản tính, nghệ thuật thánh nhằm diễn tả một cách nào đó vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại; nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó không nhắm chủ đích nào khác ngoài sự góp phần tích cực vào việc đạo đức là hướng tâm trí người ta về cùng Chúa.” (PV 122)
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 10/2
Thánh Scholastica, Trinh nữ.
1 V 8,1-7.9-13; Mc 6,53-56.
Lời Suy Niệm: “Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu….và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.”
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được nhiều người ở Ghen-nê-xa-rét, họ rảo khắp tìm Chúa Giêsu, và khi gặp và nhận ra Người, họ đã đặt những người ốm đau ngoài đường ngoài chợ để xin Người: ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.”
Lạy Chúa Giêsu. Ngày hôm nay Chúa ban cho chúng con những Phép Bí Tích. Xin cho mỗi người trong chúng con nhìn thấy được và nhận ra nơi các Bí tích là ơn ban của Chúa; và tin chính Chúa chạm đến chúng con và chữa lành chúng con.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 10-02: Thánh SCÔLASTICA
Đồng trinh (480-543)
Thánh Scholastica là em gái thánh Benêdictô, tổ phụ của những đời sống khổ tu bên Tây phương. Ngài còn được nối kết với thánh nhân như người em sinh đôi, nhưng không chắc chắn lắm. Chúng ta biết được chút ít về đời sống của thánh nữ là do cuốn Dialogue, tập hai, của thánh Grêgôriô cả, cuốn sách ghi lại đời sống thánh Bênêdictô và các phép lạ của Ngài. Như anh của Ngài, thánh nữ Scholastica đã sinh ra tại quận Sabina miền Nursia và cha mẹ Ngài được giả thuyết cho là những người dòng dõi quí phái tai miền quê.
Vào một lúc nào đó, có lẽ khi còn rất trẻ, Scholastica đã tu kín và trong những năm cuối cùng đời Ngài, chúng ta thấy Ngài sống gần Montê Cassinô, để có thể gặp được anh mình mỗi năm một lần.
Khi thánh Bênêdictô thiết lập tu viện tại Montê Cassiô, Scholastica cùng với các trinh nữ quây quần bên Ngài đã đến ở bên núi, lập thành tu viện Palumbariola, Ngài đặt mình dưới sự hứơng dẫn của anh, vì Ngài biết rằng: không có ai có thể hướng dẫn các linh hồn về trời cách chắc chắn hơn.
Nhưng Ngài không hề làm rộn anh mình và chỉ gặp anh mỗi năm một lần vào trước mùa chay, trong một trang trại của tu viện ở miền núi. Một nguyện đường đã được dựng nên tại đây để ghi nhớ những giây phút khôn tả, mà thánh Bênêdictô thông cho em mình ánh sáng thần linh Ngài thụ lãnh được và dạy dỗ em mình đường trọn lành của tu sĩ trong thống hối và yêu thương.
Nhưng lần ấy họ đã trải qua một ngày để khen ngợi Chúa và cầu xin hạnh phúc trên trời, bên ngoài khí trời tươi mát vì đã vào xuân, bầu trời trong sáng lạ thường, thánh Scholastica say sưa cảm nếm hương vị của câu chuyện đàm thọai trong khi màn đêm buông dần xuống… lúc đó thánh Scholastica nới với thánh Bênêdictô: – Anh ơi trời khuya rồi, làm sao anh về được. Thôi mình tiếp tục nói chuyện tới sáng về niềm vui cuộc sống trên trời đi.
Thánh Bênêdictô trả lời: – Em nói chi, anh không thể nhận lời em được. Anh không thể qua đêm ở ngoài nhà dòng được đâu.
Thánh Scholastica dấu mặt vào đôi lòng bàn tay và nức nở khóc. Ngài nói với Chúa ước muốn êm ái của lòng mình. Và Thiên Chúa là đấng đã chúc phúc cho cả một cuộc sống hiến dâng, lại sắp gọi thánh nữ về với mình, nên như người cha chiều con vậy, đã muốn ban cho Ngài niềm an ủi dịu dàng cuối cùng. Một trận cuồng phong nổi lên. Mưa đổ xuống như thác lũ với sấm sét dữ dằn. Chẳng ai còn có thể nghĩ tới việc ra đi nữa.
Thánh Bênêdictô bối rối, Ngài nói: – Này em, em làm gì vậy ?
Thánh Scholastica êm ái trả lời: – Em đã xin anh, nhưng anh chẳng muốn nghe em. Em đã cầu xin Chúa và Ngài đã nhận lời. Bây giờ nếu có thể được, anh hãy về nhà dòng đi.
Lúc ấy thánh Bênêdictô cảm tạ lòng thương xót Chúa, Ngài tiếp tục nói chuyện về hạnh phúc đang chờ đón những người Chúa chọn. Lời Ngài dâng cao như những chùm ánh sáng.
Đến sáng cơn giông ngừng. Anh em mỗi người một ngả và không còn gặp nhau trên trần gian này lần nào nữa.
Ba ngày sau, khi thánh Bênêdictô đang đứng bên cửa sổ đã thấy linh hồn em mình bay lên như ánh chim câu, phủ đầy ánh sáng thiên đàng. Say mê với thị kiến này, Ngài cất cao giọng hát bài thánh Ca. Đó chính là lúc thánh Scholastica êm ái tắt hơi trong tu viện mình. Thánh Bênêdictô sai các tu sĩ đi tìm xác em để chôn trong ngôi mộ dọn sẵn cho mình.
Một tháng sau nhà ẩn tu vĩ đại cũng từ giã cõi thế để hợp với thánh Scholastica trong hạnh phúc của các thánh nhân mà họ đã tha thiết khơi dậy.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
10 Tháng Hai
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời
Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.
Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: “Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông”. Nói xong, người hành khất ném cả ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.
Ðã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.
Không gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.
Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.
Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?
Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: “Cho thì có hạnh phúc hơn nhận lãnh”.
Cho là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai, Tuần V TN
Bài đọc: Gen 1:1-19; I Kgs 8:1-7, 9-13; Mk 6:53-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải biết ơn tác giả của sự sống.
Trong thế giới con người, chúng ta thường thấy có 2 hạng người tiêu biểu: một hạng người chịu để tâm nghiên cứu để tìm ra sự thật, nguồn gốc, và căn nguyên mọi loài như: “Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa trong vũ trụ.” Hay “Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa nơi phòng thí nghiệm.” Ngược lại, có những người lười biếng, không chịu học hỏi lịch sử, và truy tầm nguồn gốc và căn nguyên của mọi loài; lại còn có thái độ tự tôn, kiêu ngạo, và nghĩ mình có thể làm mọi sự; chẳng hạn lời tuyên bố của triết gia hiện sinh F. Nietzsche “Tôi đã giết chết Thiên Chúa!” hay lời phê phán của K. Marx, ông tổ cộng sản, về niềm tin vào Thiên Chúa: “Tôn giáo là thuốc phiện mê ngủ con người.”
Nếu con người chịu khó học hỏi lịch sử và tìm về nguồn cội, con người sẽ khám phá ra trái đất con người đang sống chỉ là một hành tinh nhỏ và mỏng giòn của vũ trụ, chứ không phải là trung tâm điểm hay cái rốn của vũ trụ như nhiều người lầm tưởng. Trái đất tự nó không thể sống một mình, nhưng tùy thuộc vào các hành tinh chung quanh; nhất là 2 hành tinh lớn mặt trời và mặt trăng. Nhận ra thân phận yếu đuối của mình sẽ giúp con người khiêm nhường hơn, biết ơn, và trông cậy vào sự khôn ngoan, uy quyền, và sức mạnh của Đấng Sáng Tạo.
Hai Bài Đọc hôm nay nói lên sự tương phản giữa Đấng Sáng Tạo uy quyền và con người yếu đuối bệnh tật. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Sách Sáng Thế Ký, dù không có một dụng cụ nghiên cứu thiên văn nào, cả hàng mấy ngàn năm trước đây, đã biết dùng trí óc lý luận của mình, nhận ra uy quyền sáng tạo của Thiên Chúa trong vũ trụ. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Solomon khánh thành Đền Thờ và cho rước Hòm Bia Thiên Chúa vào nơi Cực Thánh trong Đền Thờ. Thiên Chúa cho vua và dân chúng biết sự hiện diện của Ngài với dân bằng đám mây dày đặc.
Trong Phúc Âm, Thiên Chúa, tác giả của sự sống, cũng là người chữa lành mọi tật bệnh cho con người. Điều kiện để được chữa bệnh: con người phải nhận ra tình trạng bệnh tật của mình và đến với Thiên Chúa để được chữa lành.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Thiên Chúa tạo dựng trời đất.
Điều đầu tiên chúng ta cần chú ý khi đọc trình thuật tạo dựng: Đây không phải là thứ tự những gì Thiên Chúa làm; nhưng là một tường thuật về công cuộc tạo dựng theo con mắt đức tin, dưới sự linh hứng của Thánh Thần. Tác-giả quan tâm tới ai là người sáng tạo, chứ không quan tâm đến cách thức chi tiết phải làm sao. Tác giả quan tâm đến sự thật đặt căn bản trên những sự kiện lịch sử, chứ không tới thứ tự lịch sử của những biến cố. Tác giả quan tâm đến sự cứu độ hơn là thần học về việc tạo dựng. Tác giả tường thuật công trình sáng tạo theo sự hiểu biết và suy tư của con người thời đó, khi chưa có những kiến thức khoa học về sự vận chuyển trong trời đất.
1.1/ Ngày thứ nhất, Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng và phân rẽ ánh sáng khỏi bóng tối: Ngay từ khởi thủy, chỉ có một Thiên Chúa; khác hẳn với những tôn giáo đa thần. Ánh sáng và bóng tối là do Thiên Chúa tạo dựng, cả hai đều ở dưới uy quyền của Thiên Chúa, chứ không là 2 thần khác nhau. Uy quyền của Thiên Chúa trên ánh sáng và bóng tối được diễn tả bằng việc Chúa muốn và phán và sự vật liền có, và Chúa gọi là sự vật liền được gọi. Theo tâm thức của người Do-thái xưa, người được đặt tên là người có toàn quyền trên sự việc. Theo sự suy luận của tác giả, ánh sáng phải có trước khi làm các việc khác, nên Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng trước khi tạo dựng các sự vật khác.
1.2/ Ngày thứ hai, Thiên Chúa tạo dựng bầu trời: Theo sự mô tả của tác-giả ở trên, toàn thể địa cầu bao bọc bởi nước; do đó, địa cầu cần được phân chia ranh giới hẳn hoi. Để làm điều này, Thiên Chúa chế tạo một cái vòm, và bầu trời giống như hình một cái phễu lớn giổng ngược để phân rẽ nước phía trên và nước phía dưới. Chỗ nước chảy xuống được khóa lại và mở ra khi muốn làm mưa.
1.3/ Ngày thứ ba, Thiên Chúa phân tách đất liền ra khỏi biển và tạo dựng cây cỏ: Sau khi đã phân cách nước phía trên, Thiên Chúa phân cách nước phía dưới khi Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất,” khối nước tụ lại là “biển.” Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Chỗ nào có đất là có cây cỏ mọc. Theo sự suy nghĩ của tác gỉa, đến lúc Thiên Chúa tạo dựng chúng nên Ngài phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Điều cần chú ý là tiềm năng sự sống và sự tái tạo đã có trong các hạt giống khi Thiên Chúa tạo dựng; và không bao giờ cạn. Bao lâu còn đất, các hạt giống sẽ sinh hoa trái cho con người hưởng dùng.
1.4/ Ngày thứ tư, Thiên Chúa tạo dựng các hành tinh: mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao.
Có lẽ tác giả phân biệt 2 thứ ánh sáng: ánh sáng của ngày thứ nhất là để nhìn, và ánh sáng đến từ mặt trời. Có lẽ tác giả chưa đủ kiến thức để biết ánh sáng ban ngày đến từ mặt trời. Thiên Chúa nghĩ: Để phân biệt ngày với đêm, cần có 2 nguồn sáng khác nhau, nên Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ Đức Chúa.
2.1/ Ngày khánh thành Đền Thờ của Thiên Chúa: Ước ao có được một Đền Thờ để Hòm Bia Thiên Chúa được đặt vào có từ thời vua David; nhưng Thiên Chúa không muốn David xây dựng Đền Thờ cho Ngài, vì tay David đã vấy máu Uriah, người vô tội. Ngài dành đặc quyền này cho vua Solomon, con của David. Tuy không được xây dựng Đền Thờ của Thiên Chúa, David cũng chuẩn bị nhiều thứ vật liệu để Solomon có thể hoàn thành dự án đó.
Hôm nay là ngày khánh thành Đền Thờ, vua Solomon triệu tập bên mình, tại Jerusalem, các kỳ mục Israel, gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Israel, để đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa lên, từ Thành vua David tức là Sion. Tất cả các kỳ mục Israel đều tới; các tư tế thì khiêng Hòm Bia, và đưa Hòm Bia của Đức Chúa cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa vào nơi đã dành sẵn trong cung điện bên trong của Đền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Cherubim. Trong Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Moses đã đặt vào đó, trên núi Horeb, khi Đức Chúa lập Giao Ước với con cái Israel vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.
2.2/ Thiên Chúa hiện diện trong Đền Thờ: Mục đích của việc xây dựng Đền Thờ không phải cho Thiên Chúa, nhưng là cho lợi ích của con người. Thiên Chúa hiện diện khắp nơi trong vũ trụ, vì tất cả là của Ngài. Con người cần có một nơi để họ biết chắc chắn Thiên Chúa đang ở giữa họ, để họ có thể đến cầu nguyện và cảm thấy được Thiên Chúa bảo vệ.
Trình thuật hôm nay xác nhận sự kiện Thiên Chúa ở giữa dân, vì “khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ Đức Chúa.” Cột mây là dấu chứng sự hiện diện của Thiên Chúa với con cái Israel kể từ khi họ xuất hành ra khỏi Ai-cập và lang thang suốt 40 năm trong sa mạc. Kể từ nay, vua Solomon và dân chúng có thể lui tới Đền Thờ để gặp gỡ Thiên Chúa và làm các việc thờ phượng.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa lành con người.
3.1/ Bệnh tật đe dọa sự sống con người: Tuy Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành; nhưng những điều dữ luôn đe dọa con người, một trong những điều dữ này là các bệnh tật. Bệnh tật có nhiều nguyên do, một trong những nguyên do chính là sự ô nhiễm môi trường và tính vô trách nhiệm của con người.
2.2/ Con người nhận ra tác giả của sự sống: Trình thuật kể: “Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.” Hai điều kiện để được chữa lành bệnh: (1) Nhận ra mình mắc bệnh, và (2) Chạy đến với Chúa Giêsu, tác giả của sự sống, để được chữa lành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Mọi vật hiện hữu là do Thiên Chúa tạo dựng. Tuy trình thuật của Sách Sáng Thế Ký không mô tả chi tiết và lý do, nhưng đó là sự thật về nguồn gốc và căn nguyên của sự vật.
– Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Ngài tạo dựng mọi sự: nước, đất, ánh sáng, hạt giống … để bảo vệ sự sống của muôn loài. Không phải ngẫu nhiên có sự sống như nhiều người lầm tưởng.
– Thiên Chúa không chỉ tạo dựng, rồi để mặc cho các tạo vật muốn ra sao thì ra như một số người lầm tưởng; nhưng Ngài luôn quan phòng điều khiển mọi sự sao cho hòa hợp và phát triển. Ngài luôn hiện diện giữa con người để dạy dỗ, chữa lành, và bảo vệ.
– Quan sát thiên nhiên và đọc trình thuật tạo dựng giúp con người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo muôn loài muôn vật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************