Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Hai Tuần I Mùa Thường Niên Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: 1 Sm 1, 1-8
“Anna buồn sầu, vì Chúa đã để bà phải son sẻ”.
Khởi đầu sách Samuel quyển thứ nhất.
Khi ấy, có một người quê ở Rama-Sôphim, miền núi Ephraim, tên là Elcana, con của Giêrôha, Giêrôha con của Êlihu, Êlihu con của Thôhu, Thôhu con của Súp, người Ephratha. Elcana có hai người vợ: một tên là Anna, người kia tên là Phênenna. Và Phênenna có nhiều con, còn Anna thì không có con. Vào những ngày luật quy định, ông này thường rời quê mình lên Silô để thờ lạy Chúa các đạo binh và hiến dâng của lễ. Tại Silô, có hai người con của Hêli là Ophni và Phêni, cả hai đều là tư tế của Chúa. Ngày kia Elcana đi tế lễ, ông chia phần cho bà vợ Phênenna và tất cả các con trai con gái của bà. Ông buồn sầu chia cho Anna có một phần, mặc dầu ông yêu bà: vì Thiên Chúa để cho bà phải son sẻ. Cả đối thủ của bà cũng làm cho bà buồn phiền và nhục mạ bà, vì Chúa đã để bà phải son sẻ. Hằng năm, mỗi lần đến ngày lên đền thờ Chúa, Elcana đều chia phần như thế, và Anna cũng đều bị khiêu khích như vậy. Bà than khóc và không ăn uống gì. Vậy Elcana, chồng bà, đã nói với bà rằng: “Hỡi Anna, sao bà khóc, và không ăn uống gì? Sao bà buồn như vậy? Tôi đây chẳng quý hơn mười đứa con sao?”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 115, 12-13. 14 và 17. 18-19
A+B: Lạy Chúa, con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a).
- A) Con lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con? Con sẽ lãnh chén cứu độ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
- B) Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
- A) Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giêrusalem hỡi!
A+B: Lạy Chúa, con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a).
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 1, 14-20
“Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Gia-côbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
13/01/2020 – THỨ HAI TUẦN 1 TN
Th. Hi-la-ri-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 1,14-20
TIN VÀ ĐI THEO
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” “…Các anh hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. (Mc 1,15-18)
Suy niệm: Tin Mừng Chúa Giê-su là một con đường đòi hỏi người ta tin và đi theo. Đó là cả một quá trình phấn đấu để trở thành người thấm nhuần con đường cứu độ của Chúa. Đó là con đường cách mạng nhân bản gồm ba điểm: tu thân, sống giáo lý đạo trời, và đi theo Chúa. Để tu thân, Chúa mở ra con đường mới: sống hòa bình chứ không hiếu chiến, yêu thương chứ không tàn ác, hối hận chứ không thù hận, sửa mình chứ không bêu xấu anh em. Nhờ giáo lý đạo trời, chúng ta được giải thoát khỏi đời sống thấp hèn, sống hòa hợp với Chúa và với anh em. Bước theo Chúa là bắt đầu lên đường và phải qua quá trình phấn đấu, thử thách, thanh tẩy, được huấn luyện và kiện toàn.
Mời Bạn: Chúng ta chỉ trở thành Ki-tô hữu khi chúng ta đặt đời sống của chúng ta trong đời sống Chúa Ki-tô. Hôm nay Chúa Giê-su vẫn cần bạn vì bạn là Ki-tô hữu. Thực tế gia đình và xã hội hôm nay đang đặt ra cho mỗi người chúng ta những vấn đề như băng hoại đạo đức, chà đạp nhân phẩm, bất công xã hội và đói nghèo. Không những chúng ta phải cầu nguyện nhưng còn phải dấn thân nhập cuộc nữa.
Chia sẻ: Bạn có muốn trở nên tông đồ của Chúa không? Bạn sẽ làm gì cho gia đình, cho giáo xứ bạn, nơi bạn làm việc?
Sống Lời Chúa: Quyết tâm từ bỏ một nết xấu như rượu chè, cờ bạc, cãi cọ…
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương và mời gọi chúng con làm con cái Chúa. Xin giúp chúng con sống xứng danh người Ki-tô hữu, để nhờ đó mọi người nhận ra Chúa là tình yêu.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG GIÊNG
Những Sứ Giả Đầu Tiên Của Đức Tin
Gia đình Kitôhữu không duy chỉ là một cộng đồng nhân loại. Món quà vô giá là sự sống con người cần phải được tháp nhập vào chính sự sống của Đức Kitô và nhờ đó trở nên phong phú. Sứ mạng chân chính của gia đình là bảo vệ các giá trị nhân bản, nhưng đồng thời gia đình cũng phải dồn tâm lực đào sâu các giá trị Kitô giáo.
Nhiều người có thể bị cám dỗ để nghĩ rằng chỉ các linh mục và tu sĩ mới được ủy trao trách nhiệm đối với Giáo Hội. Thật là một quan niệm sai lầm. Rõ ràng chính gia đình là môi trường đầu tiên để các trẻ em học biết thế nào là “thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3, 6). Như Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Các đôi vợ chồng Kitô giáo là những người cộng tác với ơn thánh và là nhân chứng đức tin đối với nhau, cũng như đối với con cái và những phần tử khác trong gia đình của họ. Chính họ là những người đầu tiên phải rao truyền và giáo dục đức tin cho con cái mình. Bằng lời nói và gương sáng họ huấn luyện con cái sống đời Kitô giáo và làm việc tông đồ. Họ thận trọng giúp đỡ con cái trong việc lựa chon ơn kêu gọi, và nếu thấy chúng có ơn kêu gọi sống đời linh mục hay đời sống thánh hiến, họ tận tình nuôi dưỡng ơn gọi ấy.” (SL Tông Đồ Giáo Dân 11)
Gia đình Kitôhữu là mảnh đất đầu tiên để các ơn gọi nẩy mầm và phát triển. Đó là một chủng viện hay một tập viện cho trẻ em. Chúng ta hãy dứt bỏ quan niệm sai lầm rằng Kitô giáo chỉ là một cái gì đóng khung bên trong cánh cổng nhà thờ. Bất cứ gì diễn ra trong phụng vụ cần phải được chuyển hóa vào đời sống hằng ngày. Gia đình phải là nơi sống phụng vụ. Để rồi, sự sống trong Đức Kitô sẽ lớn lên và trưởng thành dưới mái nhà của mỗi gia đình. Khi ấy, gia đình mới đích thực là một diễn tả chính Giáo Hội.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 13/1
Thánh Hilariô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
1Sm 1,1-18; Mc 1, 14-20.
Lời Suy Niệm: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Lời mời gọi của Chúa Giêsu luôn được vang vọng trong mọi lúc và mọi nơi cho hết mọi con người đang sống và đang làm việc. Với người Kitô hữu chúng ta tin Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, và Ngài đã ban cho con người một sự khát khao về sự vô biên và hạnh phúc, con người luôn tự hỏi về sự sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con tin vào sự hiện hữu của Chúa trong đời sống và trong mọi tạo vật chung quanh chúng con để biết kiểm điểm về đời sống của bản thân mà sám hối, canh tân đời sống và tin vào Tin Mừng Cứu Độ của Chúa. Để được Chúa cứu thoát.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 13-01: Thánh HILARIÔ
Giám Mục Tiến Sĩ (khoảng 320-368)
Thánh Hilariô chào đời tại Poa-tu (Poitou) Ngài là con một nhà quí tộc làm nghị viên và được giáo dục đầy đủ. Các môn học mà thánh nhân ưa thích là văn chương, thi ca, nhất là triết lý. Việc học tập của Ngài luôn được đào sâu cho tới cùng là Thiên Chúa, Ngài nhận định rằng: hạnh phúc thật của con người không phải bị những thú vui đời này, dù chúng thanh cao đến mấy đi nữa. Trái lại hạnh phúc là được sống cho chân lý ở một cuộc sống khác với cuộc sống tạm trên trần gian này. Ngài nói: – “Tôi khóc lên vì vui sướng mỗi khi nghĩ đến thân xác này chỉ được tiền định để phải chết đi”.
Nhưng làm thế nào mà thánh nhân đã gặp được chân lý, gặp được Thiên Chúa mà các triết gia và các tôn giáo thường nói tới một cách mù mờ ? Chính thánh nhân kể lại cuộc khám phá của mình: – “Từ môi trường ngoại giáo, Chúa đã dẫn đưa tôi tới nguồn sáng chân thực. Giữa bao nhiêu hệ thống triết lý và tư tưởng khác nhau, tôi vẫn ưu tư tìm đến Chúa bằng con đường ngay thật, chắc chắn hữu thể thần linh vĩnh cửu phải là đơn thuần và độc nhất, không có gì là không bắt nguồn tự Ngài, vạn vật đều phải thờ phượng Ngài”.
Xác tín rằng phải có Chúa, Ngài còn suy nghĩ về các phẩm tính thần linh của Chúa.
– “Nếu một công rình vượt quá trí khôn chúng ta, thì nhà nghệ sĩ thần linh còn trổi vượt công trình đó thế nào ? Vậy phải nhận biết rằng, Thiên Chúa tuyệt mỹ và chúng ta chỉ cảm nhận mà chúng ta không thể thấu hiểu nổi”.
Trong khi còn miên man suy nghĩ như vậy. Thánh nhân bỗng gặp được một cuốn kinh thánh. Ngài đọc được đoạn văn trên Chúa hiện ra với Môsê và tự bày tỏ: “Ta là Đấng hiện hữu”.
Ngài sung sướng với khám phá này: – “Tôi vui thỏa với danh hiệu mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho Môsê. Thánh danh ấy vừa biểu lộ một quan niệm sâu xa về Thiên Chúa, lại vừa tầm với trí óc con người.
Từ đó thánh nhân say mê nghiên cứu thánh kinh, nhất là các sách tiên tri với những đoạn loan báo về Đấng thiên sai. Trong các sách Tin Mừng, Ngài thích nhất tự ngôn của Tin Mừng theo thánh Gioan. – “Trí tôi học biết và Thiên Chúa vượt quá điều nó dám ước mong… lòng tôi run rẩy bồn chồn vì vui sướng trước giáo thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và trước lời mời gọi tái sinh nhờ đức tin”.
Thế là thánh nhân đã lãnh nhận phép rửa tội và cảm thấy hạnh phúc lạ lùng. Ngài đã lập gia đình và có được một người con gái. Rồi đây Ngài sẽ đưa cả vợ con về với đức tin. Khi Ngài muốn trở thành linh mục, vợ Ngài chỉ còn gặp lại Ngài tại bàn thánh và coi Ngài như một người anh. Nhân đức và trí khôn ngoại hạng còn đưa Ngài tới chức giám mục cai quản địa phận Pcachie (Poutiers) năm 350.
Lúc ấy lạc giáo Ariô nổi lên như vũ bão trong Giáo hội. Vua Constantiô ủng hộ lạc giáo và tiếp tay cho cuộc bách hại. Thánh Athanasiô bị bắt đi lưu đày. Thánh Hilariô đứng lên lãnh đạo công cuộc bảo vệ đức tin chân chính. Ngài triệu tập một công đồng để lên án hai giám mục theo lạc giáo. Cộng đồng còn cử Ngài đi thương thuyết với nhà vua. Nhưng lòng can đảm của Ngài đã bị trừng phạt bằng cuộc lưu đày năm 356, chấp nhận gian khổ, Ngài tuyên bố:
– “Người ta có thể bắt các giám mục lưu đày, nhưng có thể trục xuất chân lý được không ?”
Cuộc hành trình tới Phrygia nằm ở cuối miền Tiểu Á thật dài và đầy gian khổ. Nhưng thánh nhân đã không hề phàn nàn mà vẫn bình thản sống mật thiết kết hợp với Chúa. Đầy dũng cảm, Ngài vẫn tiếp tục làm rung chuyển thế giới bằng công việc viết lách của mình.
Ngài nói: – “Dầu bị lưu đày, chúng tôi vẫn tiếp tục nói bằng sách vở, bởi vì người ta không thể giam hãm lời Chúa”.
Ngài đã viết 12 khảo luận bàn về Chúa Ba Ngôi, và đưa giáo thuyết chân chính của công giáo với những tư tưởng kinh tế của Hylạp vào thổ ngữ. Ngài tiếp tục điều khiển giáo phận bằng thư tín. Cũng vào thời này, thánh nhân diụ dàng hướng dẫn Ebra, người con gái của mình tới đời sống thánh thện. Một bức thư Ngài viết trong buổi lưu đày còn sót lại có khuyên nhủ nàng tận hiến cho Chúa như sau:
– “Con thân yêu, con là đứa con duy nhất của cha, cha muốn thấy con đẹp nhất và đẹp nhất trong các phụ nữ. Người ta nói với cha về một thanh niên có một viên ngọc quí và một bộ áo quí giá đến nỗi ai mà có được những thứ đó thì sẽ là người giàu có hơn hết mọi người”.
Và thánh nhân kể lại rằng: phải khó khăn lâu ngày, Ngài mới gặp được người thanh niên này để xin Người ban viên ngọc và chiếc áo ấy cho Ebra. Bên chiếc áo này, tuyết hết trắng, không có một vết niơ nào có thể bôi bẩn, không một tai nạn nào có thể xé rách. Còn viên ngọc, không vật nào chịu nổi vể rực rỡ huy hoàng, chẳng bao giờ tàn sắc, ai mang được sẽ hết khổ và không phải chết.
Và Ngài tiếp: – “Đấy là những món trang sức mà cha ước ao, những thứ ban ơn cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu”.
Ngài còn gửi cho cô những khúc thánh thi để cô ca nguyện sớm chiều. Ebra sớm theo ước nguyện của người cha nhưng cũng sớm lìa trần.
Bốn năm trôi qua, Hoàng đế cho triệu tập công đồng Sêlêucia. May mắn Ngài cũng được mời dự. Tại đây Ngài đã dùng hết tài hùng biện và trí thông minh để chống lạc giáo, bảo vệ đức tin chân chính. Không chịu nổi ảnh hưởng của Ngài. Bọn theo lạc giáo đã can thiệp để Ngài về quê hương cho rảnh rợ. Thế là năm 360, Đức Giám mục Hilariô được trở về Poa-chi-ê.
Cuộc hồi hương của thánh nhân là niềm vui cho toàn dân chứ không riêng gì cho giáo phận Poa-chi-ê. Thánh Hiêrônumô đã nói: “Toàn dân Gôn (Gaules) ôm hôn vị anh hùng tay mang ngành vạn tuế trở về”.
Trong đoàn người đông đảo đón mừng người cha già, phải kể đến một người lính trẻ tên là Martinô. Lúc ấy Martinô đang sống ẩn dật ở Ganlinaria và sau này sẽ làm thánh giám mục. Ngày về của vị giám mục già cả còn được ghi dấu bằng một phép lạ nhãn tiền. Một bà mẹ khóc lóc ôm một đứa con mới chết gặp Ngài. Bà tha thiết xin thánh nhân cứu sống con mình, ít ra để nó được rửa tội. Cảm tưởng nỗi niềm đau đớn của người thiếu phụ, Ngài quì gối cầu nguyện và da thịt đứa trẻ dần dần đỏ hồng rồi sống lại.
Tuổi già sức yếu nhưng thánh nhân vẫn nhiệt thành chỉnh đốn lại những tàn phá do bè rối gây nên. Lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới tận Milan khiến bọn lạc giáo kinh hoàng và làm áp lực bắt Ngài phải trở lại Poa-chi-ê. Ngày 13 tháng giêng năm 386 Ngài đã qua đời. Người ta kể lại rằng: lúc thánh nhân tử trần, một luồng chói chang khắp phòng.
Ngày 10 tháng giêng năm 1852, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục. Đức giáo hoàng phong Ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài là vị thánh tiến sĩ đầu tiên ở Gôn.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
13 tháng Giêng
Tiếng Chó Sủa
Những người có chức vụ và quyền hành trong bất cứ xã hội nào cũng thường bị chỉ trích và chống đối.
Có một nhà lãnh đạo quốc gia kia thường bị những người đối lập tấn công và thóa mạ một cách bất công, nhưng lúc nào ông ta cũng tỏ ra bình thản như không có gì xảy ra. Một hôm, có người bạn hỏi lý do tại sao ông có thể tỏ ra bình tĩnh được trước không biết bao nhiêu khiêu khích của người khác, ông đã giải thích như sau:
“Tôi đã học được bí quyết giữ bình tĩnh ngay từ lúc nhỏ. Chúng tôi sống bên cạnh một nhà láng giềng có nuôi một con chó khó tính. Cứ mỗi lần trăng tròn, con chó lại sủa một cách giận dữ vô căn cứ, có khi cơn sủa của nó kéo dài đến cả tiếng đồng hồ. Tất cả những người xung quanh đều tỏ ra bực bội đối với con vật khó tính ấy, chỉ trừ có người chủ của nó. Oâng không bao giờ tỏ ra bực bội, bởi vì ông ta là một người điếc.
Tất cả bí quyết của tôi nằm ở đó. Trăng sáng, con chó sủa. Một lúc sau, nó lại mỏi mệt và thôi sủa mặc dù trăng vẫn cứ sáng”.
Kiên nhẫn chịu đựng thường bị xem như một thể hiện của tính thụ động, tiêu cực. Có người còn gọi đó là nhân đức của người nghèo. Thế nhưng, trong cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ chúng ta cần đến nhân đức này hơn bao giờ hết.
Thiên Chúa là đấng kiên nhẫn. Kiên nhẫn vẫn là nét đặc thù trong công trình sáng tạo của Ngài. Chúng ta có biết rằng trái đất của chúng ta có bao nhiêu tuổi chưa? Các nhà địa chất nói với chúng ta rằng trái đất đã được cấu tạo qua từng thời kỳ kéo dài đến cả triệu triệu năm. Ðịa chất học quả thực là môn học của sự kiên nhẫn của Thượng Ðế. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn đối với con người. Toàn bộ Cựu Ước là một quyển ký lục về những nhẫn nhục chịu đựng của Thiên Chúa đối với sự yếu đuối, khờ dại cũng như hung bạo của con người. Ngài phải chờ đợi đến cả trăm năm để cho lụt Hồng Thủy trút xuống trên con người. Ngài chờ đợi đến cả mười năm mới trừng phạt vua Saolô.
Tân Ước lại càng cho chúng ta cảm nhận được bằng xương thịt. Tình yêu thương nhẫn nhục, chịu đựng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự nhẫn nhục của Chúa Giêsu đối với các môn đệ, đối với kẻ thù của Ngài và nhất là đối với đám đông nghèo khổ, lạc lõng. Nhưng nhất là những đau khổ, bách hại mà chính bản thân mình gánh chịu, Chúa Giêsu chỉ biết giữ thinh lặng, thinh lặng không phải của căm hờn, oán trách mà là của yêu mến, tha thứ cho đến cùng.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 1 TN2
Bài đọc: I Sam 1:1-8; Mk 1:14-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cùng nhau làm việc.
Người Việt Nam chúng ta rất thành công khi làm việc một mình; nhưng thường thất bại khi phải làm việc chung với người khác. Lý do là vì chúng ta sợ: sợ bị mất quyền hành, sợ người khác hơn mình, sợ phải san sẻ lợi lộc cho người khác. Để có thể làm việc chung, chúng ta phải vượt qua những nỗi lo sợ này; phải cho các cộng sự viên của mình cơ hội để họ chứng minh họ xứng đáng với niềm tin của chúng ta; và phải nhìn thấy những mối lợi do sự làm việc chung mang lại hơn là lo sợ những gì chúng ta phải mất.
Hơn nữa, để làm việc chung có hiệu quả, trước khi trao công việc, chúng ta phải: huấn luyện để các cộng sự viên biết làm những gì chúng ta trao cho họ; trao việc là phải trao quyền hành: cộng sự viên là những người đại diện chúng ta để giải quyết vấn đề, chúng ta cần cho họ biết trước những giới hạn về quyền hành nếu có; và phải giúp mọi phương tiện, để họ có thể thi hành sứ vụ được trao phó.
Các Bài đọc hôm nay cho thấy ích lợi của làm việc chung: Trong Bài Đọc I, tác giả nêu lên sự tương phản giữa sự khinh thường và sự thông cảm hoàn cảnh đau khổ của bà Hannah. Bà Peninnah luôn tìm cơ hội để chọc tức và khinh thường; trong khi ông Elkanah luôn tìm dịp an ủi và yêu thương bà Hannah. Trong Phúc Âm, sau khi nhận lãnh sứ vụ từ Chúa Cha, Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên để Ngài huấn luyện họ, trước khi sai họ đi để tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài Đọc I: Hai thái độ trước nỗi đau khổ của tha nhân
1.1/ Thái độ khinh thường và chọc tức của bà Peninnah: Trình thuật kể ông Elkanah có hai vợ: bà Peninnah và bà Hannah. Bà Peninnah có con, còn bà Hannah không có con. Hằng năm, ông Elkanah đưa gia đình lên thờ lạy và dâng hy lễ cho Đức Chúa các đạo binh tại Shiloh. Đến ngày ông Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. Còn bà Hannah, thì ông chia cho một phần ngon, vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được.
Ông Elkanah đối xử công bằng đồng đều và yêu thương mọi người trong gia đình; nhưng bà Peninnah thì không. Bà luôn kiếm cơ hội để chọc tức và hạ nhục bà Hannah, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Đây là điều thường xảy ra cho những người có nhiều vợ, vì bà nào cũng muốn không những được chồng thương yêu; nhưng còn phải ghét bỏ những bà khác.
1.2/ Thái độ thông cảm với nỗi buồn tủi của bà Hannah: Khi nhìn thấy nỗi đau khổ của bà Hannah, ông Elkanah biết ông không thể thay đổi tính kiêu ngạo và ghen tị của bà Peninnah; nên ông dành tình yêu thương cho Bà Hannah nhiều hơn. Khi thấy bà khóc và không chịu ăn, ông Elkanah an ủi bà: “Hannah, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?”
Làm vợ mà không có con là một sự sỉ nhục cho người đàn bà. Miệng lưỡi người thế gian thường cho là hậu quả của việc ăn ở thất nhân ác đức. Đó là lý do bà Hannah u sầu đau khổ: Bà biết mình không ăn ở thất nhân, ác đức; nên Bà đến cầu xin thống thiết với Thiên Chúa. Nếu Ngài thương cất nỗi nhục nhằn và ban cho Bà một mụn con trai, Bà sẽ dâng con trả lại cho Thiên Chúa, để nó phục vụ Ngài suốt đời; chứ Bà sẽ không giữ con cho mình. Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi đau khổ của Bà; nên qua miệng thầy cả Eli, Ngài hứa sẽ ban cho Bà điều Bà xin.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
2.1/ Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá: Trình thuật hôm nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu sau 30 năm ẩn mình tại Nazareth. Sứ điệp của Chúa Giêsu cho mọi người: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy xám hối và tin vào Tin Mừng.” Hai điều quan trọng Chúa muốn nhấn mạnh đến:
(1) Thời giờ đã điểm, triều đại của Thiên Chúa đã đến: Giống như Thư Do-Thái, Marcô nhấn mạnh đến sự xuất hiện quan trọng của Chúa Giêsu: tuy vẫn có sự liên tục trong Kế Họach Cứu Độ, nhưng Chúa Giêsu mang Kế-hoạch này đến chỗ hoàn hảo.
(2) Anh em hãy xám hối và tin vào Tin Mừng: Đây là điều kiện để con người được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Để kiếm người cộng tác loan truyền sứ điệp, Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài không xa lạ gì với Biển Hồ Galilee và dân chài lưới, có thể Ngài đã từng dạo chơi chung quanh, và đã nói chuyện với họ; nhưng hôm nay, Ngài mời gọi họ bỏ mọi sự để cất bước theo Ngài. Nghề đánh cá là nghề khó nhọc và đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn: phải thả lưới bắt cá khi nào cá đi tìm mồi, chứ không phải muốn thả lúc nào thì thả. Thời giờ bắt cá thường là đêm tối cho đến lúc tảng sáng, đó là giờ ngủ của con người. Chúa Giêsu chỉ hứa hẹn với các ông một điều: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Nói cách khác, Ngài hứa sẽ huấn luyện các ông để cứu vớt linh hồn của người ta. Ngài muốn cho các ông nhận ra ý nghĩa của cuộc đời bằng chính việc các ông đang làm: Đánh cá để kiếm của ăn sinh sống không quan trọng cho bằng việc đánh cá để cứu linh hồn các con người đang cần đến các ông.
2.2/ Thái độ của các môn đệ khi được Chúa Giêsu gọi.
(1) Simon và Anrê: Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Thái độ của hai ông đáp trả rất can đảm và dứt khóat. Can đảm vì phải bỏ nghề nghiệp sinh sống, các ông không chút thắc mắc “giải nghệ rồi làm gì ăn?” Dứt khóat vì quyết định rất nhanh chóng, không tiếc nuối chút nào cả.
(2) Giacôbê và Gioan: Các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người. Hai ông không những bỏ nghề mà còn bỏ cả cha, đấng sinh thành ra mình. Chúa Giêsu phải có điều gì lôi cuốn các ông hơn là nghề nghiệp và tình cảm gia đình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa có thể làm tất cả một mình, nhưng Ngài muốn sự cộng tác của con người. Ngài muốn con người cộng tác với nhau để cùng nhau sinh sống và giúp đỡ lẫn nhau. Để có thể làm việc chung, chúng ta cần tin tưởng, thông cảm, giúp đỡ, và tạo cơ hội thuận tiện cho tha nhân để họ có thể đóng góp vào công việc chung.
– Chúng ta cần tuyệt đối tránh thái độ kiêu ngạo, khinh thường tha nhân, và sợ họ hơn mình. Để có được những điều này, chúng ta cần có tầm nhìn rộng lớn, tích cực, và những lợi ích do làm việc chung mang lại.
– Chúng ta cần phản ứng cách tích cực trước lời mời gọi của Thiên Chúa; nhất là trong việc rao giảng Tin Mừng. Mỗi người được Chúa ban tài năng và hoàn cảnh khác nhau để góp phần trong việc mang Lời Chúa đến cho mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************