Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Hai Tuần XIII Mùa Thường Niên Năm lẻ
BÀI ĐỌC I: NĂM I
St 18, 16-33
“Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao?”
Trích sách Sáng Thế.
Khi những vị ấy chỗi dậy, ra khỏi thung lũng Mambrê, liền trông về phía thành Sôđôma. Abraham cùng đi để tiễn chân các đấng. Chúa phán: “Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không? Vì Abraham sẽ trở nên một dân tộc vĩ đại và hùng cường, và muôn dân thiên hạ chẳng nhờ đó mà được chúc phúc sao? Ta biết Abraham sẽ truyền dạy cho con cháu và gia tộc mai sau phải tuân theo đường lối của Chúa, ăn ở ngay lành công chính, để Thiên Chúa ban cho Abraham những gì Người đã hứa cùng ông”. Vậy Chúa phán: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ”.
Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ, đừng đối xử với người công chính như với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới, Chúa không xét đoán như thế đâu”. Chúa phán cùng Abraham rằng: “Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành”. Abraham thưa lại: “Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa con: Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì thiếu năm người Chúa có tàn phá cả thành không?” Chúa phán: “Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành”.
Abraham lại thưa cùng Chúa rằng: “Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?” Chúa phán: “Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành”. Abraham thưa: “Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?” Chúa phán: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt”. Abraham nói: “Vì con đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì sao?” Chúa phán: “Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát”. Abraham thưa: “Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?” Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”.
Khi đã nói với Abraham xong, Chúa ra đi, và Abraham trở về nhà mình. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 102, 1-2. 3-4. 8-9. 10-11
Đáp: Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. – Đáp.
2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng. – Đáp.
3) Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. – Đáp.
4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! – Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 8, 18-22
“Con hãy theo Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng vây quanh Người, thì Người ra lệnh sang qua bờ bên kia. Một luật sĩ đến thưa Người rằng: “Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, con cũng xin theo Thầy”. Chúa Giêsu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Một môn đệ khác thưa Người rằng: “Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã”. Chúa Giêsu trả lời: “Con hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
28/06/2021 – THỨ HAI TUẦN 13 TN
Th. I-rê-nê, giám mục, tử đạo
Mt 8,18-22
LÀM MÔN ĐỆ CHÚA
Thấy xung quanh có đám đông, Đức Giê-su ra lệnh sang bờ bên kia. (Mt 8,18)
Suy niệm: Phúc Âm Mát-thêu khi nói về hai trường hợp xin đi theo làm môn đệ Đức Giê-su đã mở đầu bằng việc Ngài ra lệnh các tông đồ rời bỏ đám đông để vượt Biển Hồ “sang bờ bên kia”. Làm môn đệ Thầy Giê-su không phải là một hành động tùy hứng hay sự tính toán thiệt hơn, mà là đi theo lời gọi mời với tất cả sự “liều lĩnh,” tự do và dứt khoát. Theo Thầy Giê-su, người môn đệ phải dứt khoát bỏ tất cả lại phía sau: của cải, sự nghiệp và những tình cảm, cũng như những tương quan thiết thân nhất. Làm môn đệ Thầy Giê-su là “lên đường”, không nhắm đạt được của cải, địa vị, chức quyền danh vọng… mà trước hết là “sang bờ bên kia”, đi theo Đấng “không có nơi gối đầu” để sống một cuộc sống “rất riêng” cá vị với Thầy.
Mời Bạn: Là Ki-tô hữu là đã được ơn gọi làm môn đệ Chúa Ki-tô. Mỗi ơn gọi, dù bậc sống nào, tu trì hay giáo dân, cũng là hoa trái của một mối tương quan gọi-đáp rất riêng, cá vị giữa Chúa Ki-tô với mỗi người chúng ta. Nhưng tất cả đều có một điểm chung là lắng nghe và đáp lại tiếng gọi yêu thương của Đức Ki-tô: “Hãy theo Ta” để ở lại với Ngài và thực thi sứ mạng làm môn đệ mỗi ngày trong chính đời thường của mình.
Sống Lời Chúa: Thực thi sứ mạng người môn đệ Chúa Ki-tô trước tiên là chu toàn với lòng yêu mến các việc bổn phận hằng ngày trong bậc sống của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, với con, làm môn đệ Chúa thật chẳng dễ chút nào, khi con cứ mãi loay hoay trong những dự tính của mình, thiếu lòng yêu mến, cũng chẳng gắn kết với Chúa. Xin cho con yêu Chúa nhiều hơn, để con có thể hoàn thành ơn gọi mình cách tròn đầy, vui tươi, với nhiều hoa trái. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm
“Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo.”
Đó là lời yêu cầu của một vị kinh sư đáng kính, thông thạo Thánh Kinh.
Vị này gọi Đức Giêsu là Thầy, dù chính ông là một bậc thầy trong dân.
Tại sao ông lại muốn đi theo Đức Giêsu, một ông thợ mộc ở Nadarét?
Tại sao một người có sự nghiệp ổn định như ông
lại chịu hạ mình làm môn đệ của Ngài?
Tại sao ông lại muốn theo Ngài đến tận chân trời góc biển?
Điều gì nơi con người Đức Giêsu đã khiến ông quyết định như thế?
Điều gì nơi Ngài đã cuốn hút con người ông
đến độ ông không muốn xa Ngài nữa,
và muốn gắn bó đời mình với Ngài?
Chúng ta không có câu trả lời cho các câu hỏi đó.
Chúng ta chỉ nghe câu trả lời của Đức Giêsu cho vị kinh sư.
“Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Ngài nhắc cho ông biết cái giá phải trả
để đi theo Ngài làm môn đệ.
Đó là cuộc sống bấp bênh, lang thang, nay đây mai đó.
Trên bước đường rao giảng, Đức Giêsu sống như kẻ vô gia cư.
Ngài tạm trú ở nơi nhà của người mở lòng đón nhận.
Chẳng rõ sau câu trả lời thẳng thắn của Đức Giêsu,
vị kinh sư có còn muốn theo Ngài nữa không?
Khi một môn đệ của Đức Giêsu xin phép về chôn cất cha trước đã,
thì Ngài đã trả lời bằng một câu khó hiểu:
“Anh hãy đi theo tôi. Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”
Người Do Thái coi trọng chữ hiếu và việc tống táng cho cha mẹ.
Có thể ở đây anh môn đệ này muốn xin về nhà,
ở với cha già cho đến ngày cha qua đời, rồi chôn cất cha để báo hiếu.
Không phải là anh không muốn làm môn đệ Thầy Giêsu nữa,
nhưng trước hết, anh muốn làm tròn bổn phận của một người con.
Đức Giêsu cho anh thấy báo hiếu không phải là bổn phận hàng đầu,
dù tôn kính cha mẹ là luật quan trọng trong xã hội Do Thái.
Ngài cho anh thấy có Ai đó còn quan trọng hơn cả cha mẹ.
“Hãy theo tôi”, tiếng gọi này đòi dành ưu tiên cho Ngài,
đến độ nghĩa vụ thiêng liêng nhất là chôn cất cha phải nhường bước.
Tin Mừng hôm nay cho thấy cái giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Có người xin đi theo Thầy khắp mọi nơi Thầy đi.
Nhưng đi vào Vườn Dầu, đi lên Núi Sọ, ít người dám theo Thầy.
Có người đã là môn đệ rồi, nhưng lại băn khoăn vì nghĩa vụ.
Anh phải nghe được tiếng gọi mới của Thầy: “Hãy theo tôi” (c. 22).
và đơn sơ đặt sứ mạng lên trên hết.
Thân phận người môn đệ xưa nay đều giống nhau.
Theo Thầy là phải chịu long đong, thiếu thốn, bị từ chối và bách hại,
thậm chí phải chấp nhận cái chết.
Nhưng hạnh phúc vẫn chờ họ, chỉ vì họ đã cùng thân phận với Thầy.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28 THÁNG SÁU
Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa: Một Xác Nhận Nền Tảng
Việc tách biệt công cuộc sáng tạo khỏi sự quan phòng thần linh (thuyết tự nhiên thần giáo) và việc phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của Thiên Chúa (thuyết duy vật) mở ngõ cho sự sai lầm của thuyết tất định duy vật (materialistic determinism). Ở đây con người và đời sống của con người trở thành hoàn toàn phụ thuộc vào một tiến trình phi ngã. Đối đầu với những tấn công này, chân lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về sự quan phòng thần linh của Ngài giúp bảo đảm cho con người sự tự do và chỗ đứng của mình trong vũ trụ.
Chúng ta nhận thấy sự thật này được khẳng định trong Cựu Ước. Chẳng hạn, Thiên Chúa được xem như một sự đỡ nâng mạnh mẽ và không gì có thể tiêu diệt được: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ!” (Tv 18, 2-3). Thiên Chúa là nền tảng vững chắc để con người có thể tựa vào, như lời tác giả thánh vịnh thốt lên đầy xác tín: “Lạy Chúa, số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16, 5).
Sự quan phòng của Thiên Chúa là lời xác nhận hùng hồn của Ngài đối với tạo vật, nhất là đối với con người – triều thiên của mọi tạo vật. Sự quan phòng ấy đảm bảo quyền cai quản tối cao của con người trong thế giới này. Điều này không có nghĩa rằng các qui luật tự nhiên bị quyền cai quản tối cao của con người xóa bỏ. Trái lại, nó có nghĩa rằng chúng ta phải loại trừ thuyết tất định duy vật kia – một chủ thuyết giảm trừ toàn bộ sự hiện hữu của con người đến chỉ còn như một cái gì hoàn toàn tất định. Trong thực tế, một cái nhìn như vậy sẽ hủy diệt sự tự do chọn lựa của con người.
Thiên Chúa – trong sự quan phòng của Ngài – chính là sự đỡ nâng tối thượng cho sự tự do của chúng ta. Đó là điều tốt lành và quí hóa biết bao!
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 28/6
Thánh Irênê, giám mục, tử đạo
St 18, 16-33; Mt 8, 18-22.
LỜI SUY NIỆM: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Đức Giêsu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu,”
Khi Chúa Giêsu thấy có đám đông đi theo Người, Người đã ra lệnh cho các Tông Đồ sang bờ bên kia. Trong đó có người kinh sư xin được đi theo Người: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Bởi vì ông đã nhận ra nơi Chúa Giêsu có những gì đó khác lạ, Người có quyền năng khi chữa lành mọi kẻ ốm đau tật nguyền, đặc biết với những người bị bệnh phong, một chứng bệnh vào thời bấy giờ là vô phương cứu chữa, nhưng Người đã chữa lành họ. Nhưng rồi Chúa Giêsu cho ông ta biết một sự thật: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu,” Để cho người kinh sư này thấy được một sự thật; nếu muốn đi theo Người phải từ bỏ tất cả. Đặt trọn niềm tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi chúng con muốn đi theo Chúa, thì phải biết từ bỏ tất cả. Xin Chúa ban thêm ân sủng cho mỗi người trong chúng con để chúng con có đủ sức mạnh từ bỏ mọi sự; vững tin vào Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 28-06: Thánh IRENÊ
Giám mục, Tử Đạo (Thế kỷ II)
Thánh Irenê sinh tại Tiểu Á và giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:
– “Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.
Thánh Irenê còn phấn khởi ghi thêm: – “Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng”.
Như vậy, thánh Irenê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irenê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irenê còn ở trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm dài “Adversus Haereses” của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được thấm nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, giám mục Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irenê cho Giáo hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm thánh kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng xố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.
Năm 177, thánh Irenê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức giáo hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ phục sinh
Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irenê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo hội.
Thánh Irenê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương những lẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo hội thật:
– “Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống …. Khốn khổ cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản”.
Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đang được gọi là “Anh sáng bên trời Tây”.
Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.
Hoàng đế Seltinô – Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
28 Tháng Sáu
Ngợi Khen Con Người
Trong tập thơ có tựa đề “Nhật ký”, nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel đã tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên Thiên Quốc nhìn xuống dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ đổ nát, không có chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị linh mục già đành phải khua mõ vào bất cứ đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang để giục giã dân chúng đến giáo đường đọc Kinh “Te Deum” ngợi khen Cúa nhân ngày cuối năm.
Trời mưa lạnh như cắt. Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ xô về ngôi giáo đường. Chúa theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn độc mà ngôi nhà vừa bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn. Chúa lại nhìn thấy một thiếu phụ mà cách đó không lâu bọn Ðức Quốc Xã đã tước đoạt mọi tài sản. Một người đàn bà khác, mà chồng đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ. Có cả thiếu phụ mất con mà người ta không tìm ra tung tích. Có cả người đàn ông mà vợ và con bị chôn vùi dưới đống gạch vụn… Còn bao nhiêu người khốn khổ khác nữa. Họ không biết đi đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù đã đốt phá và cướp đi tất cả những lương thực dự trữ.
Vậy mà những người khốn khổ ấy có mặt đày đủ trong ngôi giáo đường. Có một vài tiếng khóc. Nhưng tất cả đều cất tiếng hát bài “Te Deum” ngợi khen Chúa trong ngày cuối năm vì những ơn huệ Ngài ban trong năm qua.
Nhìn thấy cảnh tượng ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người khốn khổ, Thiên Chúa vô cùng cảm động. Ngài nói với các Thiên Thần như sau: “Quả thực, quả thực, Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó dâng cho Ta cả năm để được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã xảy đến với họ… Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã xin lương thực hằng ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói khát. Họ đã phó dâng cho ta gia đình, người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người thân của họ lại bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta… Ta không thể thanh tẩy thế giới mà không thể thử thách nó như thời Noe. Nhưng đây là công việc của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm. Nhưng con người lại phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và cảm tạ Ta cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ… Quả thực, lòng tin của họ lớn lao… Các ngươi có nghe họ hát “Thánh, thánh” với tất cả trang trọng không? Hỡi các Thiên Thần và các Thánh, nào các ngươi hãy hát lên một bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn khó, vẫn lên tiếng tôn vinh Ta”.
Nói xong, Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca “Ngợi khen con người”.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài không thể không say mê con người, Ngài không thể không chung thủy với con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện tại và những khắc khoải lo âu cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm tín thác cho Thiên Chúa.
Tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình người dù có bội bạc, mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cũng vẫn còn chất chứa trong đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa. Ðáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp hèn đê tiện, người có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người hãy giữ mã
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai – Tuần 13 – TN1 – Năm lẻ
Bài đọc: Gen 18:16-23; Mt 8:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thương lượng với Thiên Chúa!
Con người có thói quen tính toán và thương lượng; vì thế, họ thương lượng ngay cả với Thiên Chúa. Ví dụ: Nếu Chúa muốn con theo đạo, hãy ban cho con được khỏe mạnh, hay cho con có việc làm tốt, hay cho con cái con biết ngoan ngoãn vâng lời. Nếu Chúa muốn con đi theo Chúa, xin Chúa hãy săn sóc và bảo vệ cha mẹ và gia đình của con … Tuy nhiên, sự thương lượng của con người luôn thay đổi: khi thì cho Thiên Chúa làm như vậy mới công bằng, khi thì cho Thiên Chúa làm như vậy là bất công.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những trường hợp con người muốn thương lượng với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa muốn phá hủy hai thành Sodom và Gomorrah vì tội lỗi quá nhiều của họ. Abraham muốn cứu cháu mình là gia đình ông Lot; nên Abraham thương lượng: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?” Trong Phúc Âm, khi một người mong muốn theo Chúa, nhưng thương lượng với Chúa hãy đợi cho anh về chôn cất cha anh trước đã; Chúa Giêsu nói với anh: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết! Phần anh, hãy theo Ta.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?”
1.1/ Thiên Chúa quan tâm đến Abraham: Có hai ký do khiến Ngài quan tâm đến ông: vì ông là tổ-phụ của mọi dân tộc và là bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa. Như một Tổ-phụ, ông phải biết đường lối của Thiên Chúa để dạy dỗ con cháu. Vì thế, Thiên Chúa cân nhắc: “Ta có nên giấu Abraham điều Ta sắp làm chăng? Abraham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh và mọi dân tộc sẽ được chúc phúc nhờ nó. Thật vậy, Ta đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của Đức Chúa mà thực hiện điều công minh chính trực; như thế Đức Chúa sẽ làm cho Abraham điều Người đã phán về nó.” Sau đó, Đức Chúa mặc khải cho Abraham biết ý định của Ngài về số phận của hai thành Sodom và Gomorrah.
1.2/ Abraham thương lượng với Thiên Chúa:
(1) Cách phán xét của Thiên Chúa: Đức Chúa phán: “Tiếng kêu trách Sodom và Gomorrah thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết.” Trong vai trò của độc giả, chúng ta biết hai thành này có tội, và án phạt của Thiên Chúa đã xảy ra cho hai thành. Chúng ta cũng biết Thiên Chúa công chính: Ngài trả cho con người theo những gì họ đã gây ra.
(2) Lối suy nghĩ của Abraham: Ông thưa với Thiên Chúa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?”
– Theo Abraham, Thiên Chúa không nên tiêu diệt người lành cùng một trật với kẻ dữ; vì như thế là không công bằng. Có nhiều điều khúc mắc về thần học ở đây:
+ Nếu Abraham tin ơn phúc của người lành có thể đủ để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của kẻ dữ, như khi ông thương lượng với Thiên Chúa ở dưới; thì tội của kẻ dữ cũng phải ảnh hưởng trên người lành. Vì thế, Thiên Chúa có thể tiêu diệt cả hai một trật. Hơn nữa, tội của kẻ dữ nhiều khi là hậu quả của sự vô tâm từ phía người lành: cha mẹ không chịu dạy dỗ con, xã hội vô tâm không chịu giúp đỡ người yếu thế. Vì sự vô tâm không chịu giáo dục và chăm sóc, họ vô tình đẩy những người yếu thế vào con đường tội lỗi. Vì vậy, tội vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính cộng đoàn; chẳng một tội cá nhân nào mà không ảnh hưởng đến cộng đoàn. Nếu muốn cho cộng đoàn tốt đẹp, mọi người đều có bổn phận dạy dỗ và chăm sóc cho các phần tử của cộng đoàn.
+ Thiên Chúa có thể tiêu diệt cả hai một trật; nhưng sẽ phân biệt họ khi phán xét để hưởng hạnh phúc đời sau. Như thế, Ngài vẫn công bằng khi đối xử.
+ Nếu Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ dữ, có người cũng sẽ than trách Ngài không công bằng: để kẻ dữ tha hồ tác hại người lành!
– Khi Abraham thương lượng với Thiên Chúa và giảm con số người lành từ 50 xuống tới 10, ông hy vọng ơn phúc của người lành có thể đủ để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của kẻ dữ. Làm sao con người biết khi nào cán cân sẽ thăng bằng giữa phúc của kẻ lành và tội của kẻ dữ?
2/ Phúc Âm: Theo Chúa là phải chấp nhận đường lối của Ngài.
2.1/ Giá phải trả của việc đi theo Chúa Giêsu: Chúa Giêsu rất thực tế: Ngài nói cho các môn đệ về phần thưởng sẽ được, nhưng cũng không giấu diếm các ông về giá phải trả của việc đi theo Ngài. Điều này làm cho người muốn theo phải suy nghĩ: Nếu họ chấp nhận vinh quang qua con đường đau khổ, hãy bỏ mọi sự, vác thánh giá hàng ngày, và theo Chúa tới cùng. Nếu họ cảm thấy không theo được, hãy có can đảm từ khước từ ngay từ đầu, để đừng bỏ giữa đường và mất cả hai: đời này và đời sau.
Thánh Matthew tường thuật một kinh sư tiến đến thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Đức Giêsu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” Chúa Giêsu muốn người kinh sư nhận ra ít là hai điểm:
(1) Tương lai bấp bênh: Nhà rao giảng Tin Mừng phải di chuyển luôn luôn, chứ không sống cố định một chỗ như phần đông con người. Khi đã hoàn tất sứ vụ ở một nơi, ông lại phải đến một nơi khác và bắt đầu làm lại từ đầu.
(2) Sống nghèo khó: Nhà rao giảng không có nhà cửa, tài sản; nhưng hoàn tòan sống theo sự quan phòng của Thiên Chúa.
2.2/ Phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi người: Một môn đệ khác thưa với Người: “Thưa Ngài, cho phép con về chôn cất cha con trước.” Đức Giêsu bảo: “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.” Câu trả lời của Chúa Giêsu không dễ hiểu; nhiều người cho Chúa Giêsu dạy điều bất hiếu với cha mẹ!
(1) Chúa có dạy phải bất hiếu với cha mẹ? Theo truyền thống Á-đông, một trong những điều bị coi là bất hiếu khi con cái sống xa cha mẹ lúc các Ngài cao niên. Con cái, nhất là con trai trưởng, phải ở gần cha mẹ để lo lắng cho các ngài lúc tắt lửa tối đèn; nhất là phải chôn cất cha mẹ trước khi lo cho tương lai của mình.
(2) Chúa đòi người môn đệ phải làm theo thánh ý của Thiên Chúa trên hết tất cả ý của con người, bao gồm ý của cha mẹ, như Ngài đã từng dạy: Tiên vàn, các con hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước, còn mọi sự khác, Ngài sẽ quan phòng lo liệu cho các con sau. Khi phải chọn lựa giữa việc đi theo Thiên Chúa và việc ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, con người phải chọn Thiên Chúa trước theo như giới răn thứ nhất dạy. Tuy thế, Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ lo liệu để có người chăm sóc cho cha mẹ.
Hơn nữa, Chúa muốn con người phải biết nắm lấy cơ hội và thi hành ngay. Ngài biết nếu cứ để con người hẹn lần hẹn mòn, con người sẽ để cho cơ hội qua đi mà không chịu thực hiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất. Đừng thương lượng và bắt Ngài phải suy nghĩ và hành động như con người hay thay đổi của chúng ta.
– Khi đã chấp nhận làm môn đệ của Đức Kitô, chúng ta tình nguyện đi theo con đường đau khổ để đạt tời vinh quang. Chúng ta phải yêu mến và phục vụ Ngài trên hết mọi người và mọi sự.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************