Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Năm Tuần XXXI Mùa Thường Niên Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: Pl 3, 3-8
“Những điều xưa kia được kể là lợi ích cho tôi, thì nay tôi coi là bất lợi vì Đức Kitô”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, chính chúng ta là những người chịu cắt bì, chúng ta phụng thờ Thiên Chúa theo thần trí, và khoe mình trong Đức Giêsu Kitô, chứ không tin tưởng vào xác thịt, mặc dầu chính tôi cũng có thể ỷ lại vào xác thịt. Nếu có ai khác nghĩ mình có lý để ỷ lại vào xác thịt, thì tôi còn có lý hơn: tôi đã chịu cắt bì từ ngày thứ tám, là người chủng tộc Israel, thuộc chi họ Bengiamin, là người Do-thái sinh bởi người Do-thái, là người biệt phái chiếu theo lề luật. Bởi lòng đạo đức nhiệt thành, tôi đã bách hại Hội Thánh Thiên Chúa, chiếu theo đức công chính do lề luật công bố, tôi được coi là người không có gì đáng trách.
Nhưng những điều xưa kia được kể là ích lợi cho tôi, thì nay vì Đức Kitô tôi coi là bất lợi. Vả lại tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7
A+B=Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui (c. 3b).
A=Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. – Đáp.
B=Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. – Đáp.
A=Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. – Đáp.
ALLELUIA: 2 Cr 5, 19
-Thiên Chúa ở trong Đức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 15, 1-10
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: ‘Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!’ Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
“Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất’. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
03/11/2022 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 31 TN
Th. Mác-ti-nô Po-rét, tu sĩ
Lc 15,1-10
YÊU KHÔNG TÍNH TOÁN
“Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để tìm cho kỳ được con chiên bị mất.” (Lc 15,4)
Suy niệm: Người mục tử để chín mươi chín con chiên không lạc ngoài đồng hoang để đi tìm một con chiên lạc. Con chiên bị lạc chưa chắc tìm được, trong khi chín mươi chín con kia có nguy cơ bị thú dữ ăn thịt hay bị lạc mất. Chắc là người mục tử biết điều này! Người phụ nữ đánh rơi một đồng quan đã mất công thắp đèn, quét nhà, moi móc mà tìm. Sao bà không để ngày hôm sau trời sáng đã tìm có đỡ vất vả hơn không? Không! Người mục tử quý yêu con chiên lạc như con chiên duy nhất của mình. Người phụ nữ quý đồng quan hơn cả điều duy nhất mang lại sự sống cho mình. Vì thế họ không tính toán theo logic, mà nóng lòng gặp lại cái mình đã mất. Và khi gặp lại, họ mở tiệc ăn mừng, mà cũng chẳng tính toán lời lỗ hay tốn kém thế nào. Đúng là tình yêu không lý lẽ! Đúng hơn đó là lý lẽ của tình yêu!
Mời Bạn: Tự bản tính con chiên đi lạc sẽ vểnh tai, nghe ngóng, tìm cách trở về đàn. Đồng tiền bị đánh rơi, chỉ lăn ít vòng rồi nằm lại đâu đó. Còn con người tội lỗi có thể ăn năn trở về, nhưng cũng có thểtiếp tục sống trong tội. Chúng ta chọn tiếp tục sống trong tội hay quay đầu trở về?
Sống Lời Chúa: Thánh Gio-an khẳng định: “Ai nói mình không có tội là người nói dối” (1Ga 1,8). Nghe lời nhắc nhở chúng này ta quyết sám hối trở về.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tháng 11 được dành riêng để cầu nguyện cho các linh hồn đang chịu thanh luyện. Xin cho chúng con khi cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội thì cũng biết nghĩ tới tình trạng của mình để ăn năn sám hối.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả,
nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người,
vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa.
Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi,
đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa.
Trước khi con người hướng về Thiên Chúa
thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người.
“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”
Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau,
nhưng cũng sống vì con người và cho con người.
Hai dụ ngôn hôm nay cho thấy Thiên Chúa quý con người.
Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện.
Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn :
có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng.
Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa.
Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ
có một trăm con chiên hay mười đồng quan.
Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất.
Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được.
Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8).
Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt.
Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang,
người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách.
Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được.
Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất.
Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng.
Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm.
“Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9).
Thiên đàng không cắt đứt với trần thế.
Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10).
Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm.
Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa.
Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa.
Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường.
Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng.
Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy.
Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người.
Hãy để Ngài đi tìm bạn, và cho Ngài niềm vui khi tìm thấy người đã mất.
Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời,
trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn.
Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do.
Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê
mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con
bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,
nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ
đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo
để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,
những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,
xin cho con thức luôn và sáng luôn,
trước nhan Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG MƯỜI MỘT
Hoa Trái Của Hiệp Nhất
Trong lời nguyện hiến tế của Người tại bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói: “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để họ cũng được thánh hiến trong sự thật” (Ga 17,19). Mối hiệp nhất được xây dựng trên sự thật, trên sự thật của Lời mạc khải, trên sự thật của chính Lời của Cha là Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Sự thật của Lời này được trao ban cho Giáo Hội trong Đức Kitô và qua các Tông Đồ là những vị đã được sai đi để làm Phép Rửa và giảng dạy nhân danh Người: “Như Cha đã sai con đến trong thế gian, con cũng sai họ đi vào thế gian” (Ga 17,18). Sự hiệp nhất của chúng ta không chỉ nhằm cho chúng ta, nhưng đúng hơn cho toàn thế giới, để thế giới có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Con của Ngài để cứu độ chúng ta (Ga 17,21.23).
Hiệp nhất là nguồn vui và nguồn an bình của chúng ta. Đàng khác, chia rẽ và bất hòa, nhất là thù hận, thì hoàn toàn đối nghịch lại hiệp nhất. Đó là sự dữ, và đầu mối của chúng là chính Satan.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 03/11
Thánh Martinô Porres, tu sĩ
Pl 3, 3-8a; Lc 15, 1-10.
Lời Suy Niệm: “Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.”
Qua sự xầm xì của những người Pharisêu và các kinh sư về sự gần giũ của Chúa Giêsu với những người tội lỗi và người thu thuế. Chúa Giêsu đã đưa dụ ngôn “Con chiên bị mất”, để cho chúng ta thấy được: Thiên Chúa nhân từ hơn loài người; trong lúc đó con người với nhau lại muốn gạt bỏ, loại trừ nhau. Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và vui mừng khi tìm dược con chiên lạc. Trong lúc đó con người chỉ kết án mà muốn hủy diệt.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết ghét tội, tránh xa chúng, nhưng với tội nhân, xin cho chúng con biết tỏ lòng yêu mến và luôn cầu nguyện cho họ biết ăn năn, sám hối trở lại với cộng đoàn.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-11: Thánh MARTINÔ PORRES
Tu Sĩ (1579 – 1639)
1579 là niên biểu ghi nhớ ngày sinh ra của Martinô ở Lima, Pêru con của một người mẹ da đen và của một người cha hiệp sĩ và 1639 là niên biểu ghi nhớ ngày qua đời của thánh nhân. Sáu mươi năm giữa hai niên biểu này là khoảng thời gian Martinô tiến tới miền ánh sáng, trong sự khiêm tốn và hiến mình trọn vẹn để phục vụ các bệnh nhân.
Cuộc tình của cha mẹ Ngài không suông sẻ lắm, vì màu da của mẹ Ngài đã đưa đến những hất hủi không những cho bà mẹ mà còn cho cả những đứa con xấu số của bà nữa. Nhưng hoàn cảnh đen tối ấy, Martinô lại coi như nén bạc trao tay để Ngài sinh lời, thành bông hoa khiêm tốn tuyệt vời.
Hồi còn là một thiếu niên, Martinô đã chứng tỏ lòng bác ái đầy khiêm tốn phục vụ của mình. Hôm ấy khi theo chị mang thức ăn cho gia đình, Ngài nghe thấy tiếng rên rỉ của một bà lão người da đỏ. Dừng lại Ngài kinh hãi khi thấy một người lính Tây Ban Nha đang hành hạ lão. Đầy thương cảm, cậu thiếu niên Martinô cúi xuống lão già người da đỏ. Nhưng ông thù ghét cự tuyệt: Thằng nô lệ… mày đen đủi. Bọn da đen tụi mày là kẻ thù của dân da đỏ.
Nhưng người thiếu niên da đen này đã không bỏ cậu đi. Cậu nói chuyện với lão già da đỏ cách dịu dàng đến nỗi lão đã thú nhận là ba ngày rồi không ăn thứ gì vào bụng lại chẳng có con cháu gì cả. Martinô đã khóc và đưa tất cả thực phẩm cả ngày đã mua được cho lão già.
Vào thời đó, chỉ cần học một chút nghề cạo gió, cắt lể như Martinô đã học thì đã được coi là đủ để chữa nhiều loại bệnh, như Martinô đã săn sóc các bệnh nhân. Và các con bệnh có thể là loài người hay loài vật, bởi vì mọi loài đau khổ đều có quyền được người bạn da đen này khiêm tốn tận tình săn sóc. Ngài đã chữa lành một con gà tây gẫy giò. Người ta còn nói rằng: Ngài đã làm cho nhiều con vật sống lại.
Vào tuổi 15, Ngài nhập dòng Daminh như một thày dòng ba. Thày thích làm những việc khiêm tốn đến độ đã được biệt danh là “thày chổi”. Tại nhà dòng Đức bà Mân Côi, Ngài vẫn tiếp tục nghề thuốc của mình với một đức ái nhẫn nại vô bờ, như là một y tá của nhà dòng. Ngài kín múc sức mạnh trong kinh nguyện và khổ hạnh, vừa dấu mình làm việc và lần hạt Mân côi, thức đêm để cầu nguyện rồi ngủ trên cái cáng dùng khiêng xác chết.
Trong dòng Ngài cũng vẫn tiếp tục lấy tình yêu để đáp lại những bất công. Một bệnh nhân giận dữ với Martinô, nhưng Ngài đã êm ái nói với họ: – Anh giận dữ phải lẽ lắm, nhưng cơn giận có thể gia tăng cơn bệnh của anh. Hãy dùng món ăn anh thích này đi và tôi thoa bóp chân cho anh.
Ngài không hề bất nhân, nhưng lại càng lo lắng săn sóc nhiều hơn cho những người tỏ ra độc ác bất công như Ngài.
Martinô đã từ chối không lãnh chức linh mục để có thể tiếp tục làm đày tớ mọi người. Để thưởng lòng trong trắng, đức bác ái và sự khiêm tốn, Thiên Chúa đã ban cho Ngài ơn chữa bệnh, nói tiên tri và làm nhiều phép lạ. Ngài qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1639.
Cuộc điều tra phong thánh cho Ngài đã sớm khởi sự từ năm 1657, nhưng mãi 200 năm sau, năm 1837, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI mới phong Ngài lên hàng chân phước và 100 năm sau nữa, ngày 6 tháng 5 năm 1962, Đức giáo hoàng Gioan XXIII phong Ngài lên bậc hiển thánh. Hương thơm thánh thiện của Ngài quả là không thể tan loãng theo thời gian.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
03 Tháng Mười Một
Con Chỉ Là Một Tên Mọi Ðen
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Martinô Porres.
Nhắc đến thánh nhân, người ta thường liên tưởng đến những ơn lạ lùng như xuất thần ngất trí trong khi cầu nguyện, như hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, hoặc như có thể trò chuyện và điều khiển cả thú vật.
Vị thánh có lòng bác ái cao độ này lại xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát và đắng cay. Là con của một thiếu nữ da đen đã từng bị đem bán làm nô lệ vào một nhà quý tộc người Tây Ban Nha, Martinô đã được vị linh mục Rửa Tội ghi trong sổ bộ của giáo xứ là “con không cha”. Quả thật, con không cha như nhà không nóc. Martinô đa lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình cha mãi cho đến năm 8 tuổi. Nhưng sau khi được chính thức thừa nhận không bao lâu, thì người cha lại bỏ rơi gia đình. Một lần nữa, cậu bé Martinô lại rơi vào cảnh khốn khổ như đa số các em bé nghèo của thành phố Lima, Pêru vào giữa thế kỷ thứ 16.
Nhưng cảnh nghèo ấy đã không gieo vào lòng cậu bé mang hai dòng máu này chút đắng cay nào. Trái lại, cậu tiếp nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống như một thách đố, như một ân sủng.
Năm 12 tuổi, Martinô đã được học nghề hớt tóc và đôi chút xảo thuật của ngành giải phẫu. Vừa hành nghề như một người thợ hớt tóc, vừa như một y tá, Martinô đã đem hết sự hăng say và tận tụy của mình để phục vụ những người nghèo đồng cảnh ngộ.
Nhưng nhận thấy chỉ có thể sống trọn Ðức Ái trong một tu viện, Martinô đã đến gõ cửa một nhà dòng Ðaminh để xin được làm trợ sĩ trong nhà. Bí quyết nên thánh của thầy Martinô là sám hối cầu nguyện và phục vụ, nhất là phục vụ trong những công việc vô danh nhất. Lần kia, nhà dòng mang nợ đến độ không thể bảo đảm được các nhu cầu của các tu sĩ, thầy Martinô đã đến thưa với Bề trên như sau: “Thưa cha, con chỉ là tên mọi đen. Xin hãy bán con đi”.
Sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, thầy Martinô cũng luôn nhận tất cả phần lỗi về mình.
Ôn lại gương hy sinh, cầu nguyện và bác ái của thánh Martinô, không những chúng ta chỉ chạy đến xin ngài bầu cử trong những lúc gặp gian nan thử thách, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là lòng tin thác vào Chúa quan phòng của thánh nhân mà chúng ta cần học hỏi, nhất là trong giai đoạn gặp khó khăn này.
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ðó phải là niềm xác tín của chúng ta. Một Thiên Chúa quan phòng là Ðấng có thể biến tất cả những đắng cay, buồn phiền, thất bại, khổ đau trong cuộc sống con người thành khởi đầu của một nguồn ơn cao quí hơn. Cũng như loài ong chỉ rút mật ngọt từ bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, cũng thế, người có niềm tin luôn có thể rút tỉa được những sức đẩy mới từ những thất bại rủi ro trong cuộc sống. Thánh Martinô đã không hận đời đen bạc vì bị người cha bỏ rơi, mà trái lại xem đó như một dịp may để cảm thông, để học hỏi và để phục vụ người khác hữu hiệu hơn. “Hạt lúa rơi xuống đất có mục nát đi mới trổ sinh được nhiều bông hạt”. Ðó là định luật của cuộc sống. Thập giá trong cuộc sống thường là khởi đầu và cơ may cho một vươn lên cao hơn.
Chúng ta thường chạy đến khẩn cầu với thánh Martinô trong cơn hoạn nạn thử thách, chúng ta cũng hãy noi gương ngài để phó thác cho Tình Yêu quan phòng của Chúa, và nhất là xin Ngài cũng giúp chúng ta luôn biết lấy Tình Thương để thắng vượt những ngược đãi của người đời, cũng luôn biết sẵn sàng phục vụ và phục vụ bằng chính mạng sống của mình.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Martin De Porres – Ngày 3 tháng 11
Bài đọc: Isa 58:6-11; Mt 11:25-30
1/ Hoàn cảnh cuộc đời thơ ấu của thánh Martin.
Dưới mắt người đời, hoàn cảnh của Martin thật là sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, hay dưới một bầu trời tối đen như mầu da của ngài vậy: Ngài là đứa con của hai giòng máu: Cha là Don Juan, một sĩ quan da trắng, thuộc giòng họ quí tộc của Tây-ban-nha, qua Lima, Peru để cai trị dân bản xứ. Mẹ là một thiếu nữ trẻ, Anna Velasquez, người địa phương da đen, nghèo khổ. Hậu quả của cuộc tình vội vã trong thời chiến tranh đã cho chào đời Martin và người chị gái của ngài. Khi nhận ra mẹ con Martin là một trở ngại và tai tiếng cho mình trên đường công danh sự nghiệp, ông đã bỏ mẹ con Martin ở lại Peru để về nước. Thiếu vắng tình thương và sự giáo dục của người cha, Martin đã mất đi một nửa cuộc đời.
Đứng trước hoàn cảnh éo le của mẹ góa con côi, bà Anna quyết định không than thân trách phận và dành trọn vẹn tình thương cho hai con: ban ngày Bà làm việc vất vả, ban đêm về thay chồng dạy dỗ cho hai anh em Martin thành người. Có thể nói tình mẹ là một trong những nguồn thắp sáng cuộc đời Martin.
Sống trong một hoàn cảnh cay đắng như thế, nhiều người thấy mình có lý do để trách Trời, hận người, hận đời, và lao vào cuộc sống trác táng, hoang đàng, tù tội. Nhưng tại sao những điều này không xảy ra cho Martin?
2/ Thiên Chúa đã ban cho Martin 3 viên ngọc quí:
Martin có thể ví như lời của một bài ca sinh hoạt của Thiếu Nhi Thánh Thể: “Con kiến đen nằm trên hòn đá đen, mặt trời tối đen Đức Chúa Trời cũng thấy.” Ngài thấy tất cả vì Ngài là ánh sáng và không có gì có thể ẩn giấu trước mắt Ngài. Martin cũng là con của Ngài như tất cả những người con khác. Là Người Cha giàu lòng thương xót, đứa con nào càng khốn khổ bệnh tật bao nhiêu, Ngài càng thương xót và ban nhiều hồng ân bấy nhiêu. Ngài đã bí mật gieo vào tâm hồn Martin 3 viên ngọc quí, và chính ba viên ngọc quí này đã thay đổi toàn bộ cuộc đời Martin.
2.1/ Viên ngọc đức tin: Nhìn các tượng ảnh của thánh Martin, chúng ta nhận thấy một hình ảnh nổi bật là luôn luôn có Cây Thập Giá, khi thì Ngài cầm trên tay, khi thì Ngài áp vào ngực. Chúng ta có thể nói Martin cố gắng diễn tả đời mình theo mẫu gương của Đức Kitô đã để lại. Thánh Phaolô xác tín: Nếu như Thiên Chúa Cha đã sẵn sàng hy sinh cho chúng ta ngay cả Người Con Một, còn gì có thể ban mà Ngài không ban tặng tất cả cho chúng ta? (Rom 8:32).
Martin tuy mồ côi cha dưới đất; nhưng Ngài không bao giờ mồ côi Cha trên trời, vì Martin tin lời hứa của Thiên Chúa: ”Cho dù cha hay mẹ có thể bỏ tôi, nhưng vẫn còn Thiên Chúa cứu vớt tôi” (Psa 27:10). Martin không cảm thấy đời hoang vắng vì ngài tin Thiên Chúa luôn phù hộ, che chở, và yêu thương mình. Khi con người có Thiên Chúa, họ có tất cả vì Thiên Chúa có mọi sự. Chúng ta có thể nói niềm tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa là động lực chủ yếu giúp Martin vững bước vượt qua mọi trở ngại trong cuộc đời.
2.2/ Viên ngọc đức cậy hay niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau: Thiên Chúa cho Martin sớm nhận thấy cuộc đời chỉ là chốn dung thân tạm thời, và căn nhà vĩnh cửu Ngài đã dọn sẵn cho Martin là chỗ ở hạnh phúc trên Thiên Đàng.
Con người có hai niềm hy vọng: hoặc họ đặt hy vọng vào những gì của đời này hoặc họ đặt niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Nếu đặt hy vọng vào vinh quang đời này, con người sẽ tìm mọi cách để vơ vét của cải, danh vọng, chức quyền, và tìm mọi cách để hưởng thụ những thú vui mà thế gian dâng tặng. Nếu đặt hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau, con người sẽ không phí thời gian và sức lực cho những điều chóng hư nát; nhưng sẽ nỗ lực tìm kiếm và tích trữ cho mình những giá trị vĩnh cửu trên trời.
Cuộc đời của thánh Martin dẫn chứng niềm hy vọng sáng ngời vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Martin không bao giờ muốn giữ cho mình dù chỉ một chút danh vọng, chức quyền, hay của cải. Ngài luôn coi trọng tha nhân, để cho người khác phần tốt nhất; vì Martin biết khi làm như thế, ngài đang sắm cho mình của cải trên Trời.
2.3/ Viên ngọc đức mến: Thiên Chúa đã làm cho Martin cảm nhận được tình yêu của Ngài. Chính điều này đã giúp nghị lực cho Martin vượt qua mọi khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.
2.3.1/ Đức mến của Martin với Thiên Chúa: Martin nhận ra rất sớm tình phụ tử Thiên Chúa dành cho ngài để đền bù sự thiệt hại của cảnh mồ côi cha. Martin cũng học được ngay từ đầu đời tình thương của Đức Kitô dưới chân Thánh Giá. Ngài đã yêu thương nhân loại đến nỗi sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và hy sinh tính mạng vì con người. Noi gương Đức Kitô chịu đóng đinh, Martin cũng muốn dang tay ôm trọn mọi nỗi khổ của nhân loại vào cho mình.
2.3.2/ Đức mến của Martin với tha nhân: Tình yêu của Martin dành cho Thiên Chúa biểu lộ qua tình yêu của Martin dành cho người nghèo, cho anh em trong Dòng, và ngay cả cho những thú vật ngoài đồng.
(1) Với người nghèo: Martin có lẽ ý thức rất rõ về những lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng Matthew, chương 25: khi một người làm gì cho những người bé mọn đau khổ nhất, người đó làm cho chính Chúa. Martin có thói quen mang bệnh nhân hôi hám ngoài đường về phòng, cho nằm trên giường của mình để săn sóc; còn mình nằm dười sàn nhà. Đi đâu Martin cũng mang theo những vật dụng hay đồ ăn để cho người nghèo; ngay cả lấy vào tiền chợ mẹ trao để giúp đỡ người nghèo.
(2) Với anh em trong Dòng: Có hai biến cố nổi bật khi Martin xin vào tu-viện Rất Thánh Mân Côi của Dòng Đa-minh mới thành lập tại Lima, Peru
+ Martin coi tất cả mọi anh em xứng đáng hơn mình: Khi xin vào Dòng lúc 15 tuổi, Martin chỉ xin được làm công việc của một người giúp việc như: quét nhà, canh cổng, giặt quần áo, lo bếp núc, và thuốc thang cho anh em khi bệnh tật. Cả hàng trăm công việc không tên, và những lời than phiền luôn chờ đợi để rót vào tai Martin khi sơ ý hay không đáp ứng đủ những đòi hỏi của anh em. Sau một thời gian giúp việc, khi Bề-trên nhấn mạnh Martin phải lãnh áo dòng của trợ sĩ, Martin mới chính thức thành thầy trợ sĩ nghèo hèn.
+ Martin tình nguyện xin cha Bề-trên bán mình như bán người nô lệ để anh em trong Tu-viện có tiền sinh sống. Martin đã học gương này nơi Đức Kitô, vì tuy Ngài là phận Thiên Chúa; nhưng đã không giữ cho mình chức phận ấy; nhưng đã hủy mình ra không bằng cách mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời đến bằng lòng chết chịu chết, và chết trên cây Thập Tự (Phi 2:6-7). Đức Kitô chấp nhận hủy mình ra không (kenosis) vì Ngài yêu thương Chúa Cha và yêu thương con người. Ngài biết Thiên Chúa yêu thương con người dường nào, và Ngài sẵn sàng hy sinh để Chúa Cha và con người được ở bên nhau. Martin cũng yêu thương Thiên Chúa và yêu thương anh chị em trong Dòng như thế, Martin nghĩ mình có thể hy sinh làm nô lệ để anh chị em có cơ hội rao giảng mang con người về cho Thiên Chúa. Ngài vẫn đang bán mình để nuôi anh chị em trong Dòng … Khi được nuôi rồi, anh chị em chúng ta có đáp ứng nguyện vọng của Martin để chinh phục con người về cho Thiên Chúa, hay lại sống theo phù hoa của thế gian!
(3) Với thú vật: Câu chuyện kỳ thú trong cuộc đời của Martin là cuộc đối thoại của ngài với gia đình nhà chuột. Con người có thể thích chó hay thích mèo vì chúng dễ thương, sạch sẽ, biết nghe lời, và thân thiện. Có thể có người thích yêu chuột kiểng (hamsters), những con chuột lông trắng hay mầu; nhưng yêu những con chuột nhắt trong nhà hay chuột cống thì hầu như không có một ai trừ thánh Martin. Chúng đã đen đủi, xấu xí, và hôi hám thì chớ; lại còn hay cắn quần áo, bàn ghế, và những đồ dùng trong nhà. Chuột có lẽ là một trong những loài vật khốn khổ nhất, vì không những chịu sự ghét bỏ của con người, mà ngay cả chó mèo cũng luôn tìm cách giết chết chúng. Có lẽ số phận của chuột một cách nào đó cũng giống như thân phận của Đức Kitô và Martin. Đức Kitô bỏ cõi trời hạ mình xuống sống với con người; nhưng vẫn bị con người tìm cách loại trừ và giết chết. Martin cũng là thân phận con người, nhưng bị cha từ bỏ và người đời kỳ thị. Có lẽ vì những lý do này mà Martin có tình thương đặc biệt cho gia đình nhà chuột chăng? Chúng là lý do mà anh em tố cáo Martin với Bề-trên Tu-viện; vì Martin đã cho chúng đồ ăn trong nhà.
Đứng trước áp lực của anh em, Martin chỉ có hai con đường: hoặc không cho chúng ăn nữa để chúng phải chết đói, hay cho chúng ăn những thuốc giết chuột để chúng phải chết; hoặc cãi lời Bề-trên và làm hại anh em bằng cách cứ tiếp tục cho chúng ăn. Cả hai cách Martin đều không thể làm được vì vi phạm đến lòng thương thú vật. Martin cầu nguyện và Thiên Chúa soi sáng để có cách thứ ba. Martin cho gọi đại diện gia đình nhà chuột tới và thương lượng: Nếu muốn được ngài tiếp tục nuôi dưỡng, toàn bộ gia đình nhà chuột phải dọn ra chuồng bò sau nhà dòng. Nếu cứ tiếp tục cắn phá quần áo của Tu-viện, ngài sẽ không cho ăn nữa. Hậu quả xảy ra: vì gia đình chuột muốn sống, nên chúng đã vâng lời Martin dọn ra chuồng bò ở; và từ đó Martin không nghe lời than phiền của anh em trong Dòng nữa.
Khi một người có sự liên hệ đúng đắn với Thiên Chúa, với tha nhân, và với các tạo vật, người ấy có thể hiểu và truyền thông tiếng nói của các tạo vật ấy. Chúng ta thấy điều này cũng xảy ra với thánh Phanxicô Khó Khăn và thánh Antôn Padua.
3/ Cuộc đời của Thánh Martin dạy chúng ta những bài học quí giá.
(1) Thiên Chúa quan tâm đến mọi người: Ngài không chỉ ban cho Martin 3 viên ngọc quí, Ngài ban 3 viên ngọc quí này cho tất cả mọi người chúng ta trong ngày lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội. Điều quan trọng là chúng ta có biết nhìn ra và làm cho ba viên ngọc sinh ích lợi cho cuộc đời mỗi người chúng ta hay không.
(2) Thầy dạy của chúng ta phải là Đức Kitô: Martin đã họa cuộc đời của mình theo gương mẫu của Đức Kitô chịu đóng đinh. Thánh Thomas Aquinô xác tín: không đâu dạy con người nhiều cho bằng dưới chân cây Thập Giá. Chúng ta đã học được gì nơi Thập Giá của Đức Kitô?
(3) Hoàn cảnh nào cũng có thể nên thánh cả. Chúng ta hãy biết sống an vui trong hoàn cảnh hiện tại Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào. Đừng đứng núi này trông núi kia để rồi trách Trời, trách người, hay than thân trách phận. Thiên Chúa không đòi chúng ta phải cố gắng quá sức mình, Ngài chỉ mong chúng ta an vui với số phận và chu toàn những gì trong khả năng mình có thể làm được với ơn thánh Ngài ban.
(4) Hãy biết sống Đức Bác Ái cách tuyệt hảo: Con đường thơ ấu của chị thánh Têrêsa Hài Đồng cũng như con đường yêu thương của thánh Martin, không chủ trương phải làm việc lớn hay việc quan trọng. Các ngài chỉ chú trọng làm việc nhỏ với tình yêu nồng nàn.
(5) Nhìn lại cuộc đời của thánh Martin, chúng ta nhận ra sự yêu thương săn sóc tuyệt vời của Thiên Chúa: Ngài đã ban 3 viên ngọc quí cho Martin. Ngài cho Martin cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa. Ngài ban ơn thánh để Martin biết chạy đến với Đức Kitô và học hỏi nơi Ngài. Ngài ban sức mạnh Thánh Thần để Martin hiểu và biết thi hành những gì đã học. Sau cùng, Ngài đổ muôn vàn phép lạ xuống qua sự bầu cử của thánh Martin. Nếu Thiên Chúa không ban phép lạ qua tay Martin, Martin sẽ mãi mãi là một chàng da đen khốn khổ nghèo hèn không ai biết tới.
Nhiều người thắc mắc: Làm sao một ông thánh da đen, sống tận Nam Mỹ, chưa bao giờ đặt chân đến Việt-nam, lại trở thành phổ thông với con dân Việt-nam, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, hay lênh đênh trên biển cả? Có lẽ câu trả lời đúng nhất là vì Martin ”đã đau mắt nên biết thương người mù.” Đức Kitô cũng như Martin đã trải qua mọi đau khổ của kiếp người, nên dễ biết thông cảm với hoàn cảnh của những người cùng chung số phận.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************