Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Năm đầu tháng. Tuần 13 Thường Niên
BÀI ĐỌC I: Am 7, 10-17
“Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Ta”.
Bài trích sách Tiên tri Amos.
Trong những ngày ấy, một vị tư tế ở Bêthel, là Amasia, sai người đến với Giêrôbôam, vua Israel, mà thưa rằng: “Amos đã nổi loạn chống đức vua, ngay trong nhà Israel, xứ sở không chịu nghe các lời của y”. Vì đây, Amos nói rằng: “Giêrôbôam sẽ chết vì gươm, và dân Israel sẽ bị đày xa xứ sở”. Và Amasia đã nói với Amos: “Hỡi nhà tiên tri, hãy trốn sang đất Giuđa mà kiếm ăn và nói tiên tri. Ðừng ở Bêthel mà tiếp tục nói tiên tri nữa. Vì đây là nơi thánh của vua, là đền thờ của vương quốc”. Nhưng Amos trả lời Amasia rằng: “Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri: nhưng tôi là một mục tử, chuyên trồng cây sung. Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo đoàn vật, và Chúa bảo tôi: “Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta”. Và này, hãy nghe lời Chúa phán: “Người bảo: Chớ nói tiên tri chống lại Israel, chớ chỉ trích dòng họ kẻ theo dị thần”. Chính vì thế mà Chúa phán như sau: “Vợ ngươi sẽ gian dâm trong thành phố. Con trai con gái ngươi sẽ gục ngã dưới lưỡi gươm. Ruộng vườn ngươi sẽ bị phân tán. Chính ngươi, ngươi sẽ chết trên đất nhơ nhớp, và dân Israel sẽ bị đày ải xa quê hương mình”.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy (c. 10b).
1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong.
ALLELUIA: Ga 8, 12
All. All. – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – All.
PHÚC ÂM: Mt 9, 1-8
“Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: “Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi”. Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: “Ông này nói phạm thượng”. Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: “Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng “Tội con được tha rồi”, hay nói “Hãy chỗi dậy mà đi”, đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội”. Bấy giờ Người nói với người bất toại: “Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con”. Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.
Ðó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
04/07/2024 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 13 TN
Th. Ê-li-sa-bét Bồ Đào Nha
Mt 9,1-8
TIN YÊU VÀ TÔN VINH CHÚA
“Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.” (Mt 9,8)
Suy niệm: Dưới con mắt của các kinh sư, họ chỉ thấy Đức Giê-su là người vi phạm luật Mô-sê và còn phạm thượng nữa. Nhưng dân chúng, những người khiêng người bại liệt đến với Đức Giê-su, lại thể hiện lòng tin của họ nơi Ngài. Khi Chúa nói lời tha tội cho anh bại liệt và nói anh “đứng dậy, vác giường mà đi về nhà” thì họ càng kinh ngạc, nhận ra quyền năng của Đức Ki-tô, và họ càng thêm lòng tin và dâng lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Một khi đã không tin, người ta càng nghi ngờ, tìm cách bắt bẻ người khác. Ngược lại, “ai đã có thì được cho thêm” (Mt 13,12): Với lòng tin, – dù lòng tin chỉ nhỏ xíu bằng hạt cải thôi – người ta có thể nhận ra bàn tay uy quyền và lòng thương xót của Thiên Chúa, và nhờ đó họ càng thêm lòng tin và ca tụng tôn vinh Ngài.
Mời Bạn: Chúa Giê-su yêu thương và thực hiện nhiều điều tốt đẹp trong đời mà đôi khi bạn và tôi chưa nhận ra. Nếu Ngài có thể chữa lành cho anh bại liệt thì ắt Ngài cũng có quyền tha tội. Và nhất là Ngài cũng sẽ làm như thế cho bạn nếu bạn đặt niềm tin vào Ngài. Những người khiêng anh bại liệt đến với Chúa, dù không phải là đối tượng trực tiếp được Ngài chữa lành, họ cũng được Ngài chúc phúc vì đã tham gia vào sứ mạng cứu độ với Ngài.
Sống Lời Chúa: Bạn tham gia vào đời sống Giáo Hội bằng cách siêng năng tham dự phụng vụ, đặc biệt là Thánh lễ, và cộng tác vào một hoạt động tông đồ thích hợp với bạn trong cộng đoàn, giáo xứ của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con thêm lòng tin yêu Chúa để con tôn vinh Chúa trong mọi giây phút đời con.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy Niệm
Khiêng một người bất toại trên một cái giường là điều không dễ.
Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao xa?
Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là bạn bè, họ hàng không?
Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình đến với Thầy Giêsu được.
Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe lăn như bây giờ.
Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.
Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối với anh chịu tật nguyền.
Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên đường.
Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở Caphácnaum gần hơn.
Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh được.
Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là một kỳ công,
vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải đưa người bệnh xuống
qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không có đường nào khác! (Mc 2, 4).
Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ (c. 2).
Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra ngoài.
Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có chung một lòng tin.
Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng được khỏi.
Họ nuôi một niềm hy vọng lớn: khi trở về không phải khiêng nhau nữa.
Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của chính mình,
và đi ngang hàng với những người bạn khác.
Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong tim của nhóm bạn này.
Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép lạ khỏi bệnh.
Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua lòng tốt của con người.
Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng đến chuyện chữa bệnh.
Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh được tha thứ” (c. 2).
Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn mà anh không xin,
ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh hồn.
Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật là vì đã phạm tội.
Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài nói.
Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể chữa lành.
Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm thượng (c. 3),
dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên Chúa,
thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền tha tội dưới đất.
Ngài bảo anh bất toại: “Đứng dậy, vác chõng mà đi về nhà” (c. 6).
Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó kiểm chứng.
Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với các bạn của anh.
Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn an xác mạnh.
Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật và tội lỗi.
Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho “loài người” (c. 8).
Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành và tha tội cho đến tận thế.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên đôi chân của mình.
Chúa đã làm cho người bất toại
nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước
bất ngờ trỗi dậy, vác chõng và bước đi.
Chúa đã làm cho người bất toại
mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của mái nhà,
được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha thứ.
Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra
và tay anh trở lại bình thường.
Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.
Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm hồn.
Có thứ bất toại làm chúng con không đến được với người khác,
dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,
không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn chờ đợi.
Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa tay ra
để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một món quà.
Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô cứng,
hững hờ trước nỗi đau của người anh em.
Xin giúp chúng con ra khỏi
những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen tương,
để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động của Chúa.
Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn
nhìn nhận sự bại liệt của mình,
và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG BẢY
Biến Cái Hỗn Mang Thành Trật Tự
Trong nhiều bản văn, Thánh Kinh ca ngợi sự quan phòng thần linh như là quyền bính tối cao của thế giới, quyền bính đầy quan tâm đối với mọi tạo vật, nhất là đối với con người. Thiên Chúa, trong tư cách là chủ nhân đầy tình yêu thương đối với tất cả những gì mà Ngài đã tạo dựng, vẫn luôn luôn làm việc trong mọi sự.
Thiên Chúa, bằng sự khôn ngoan đầy sức sáng tạo của Ngài, dự liệu mọi sự và làm việc trong mọi sự. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa vượt xa sự khôn ngoan và cẩn trọng của con người. Thật vậy, Thiên Chúa – Đấng siêu việt trên mọi sự – làm cho thế giới có thể biểu hiện trật tự lạ lùng theo ý Ngài ở nhiều cấp độ khác nhau.
Chính sự quan phòng và khôn ngoan này của Đấng Tạo Hóa làm cho thế giới có thể vận hành như một vũ trụ có hệ thống và trật tự chứ không phải như một mớ hỗn mang. “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi” (Kn 11,20). Thánh Kinh trầm trồ về sự khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 04/7
Thánh nữ Êlisabeth Bồ Đào Nha
Am 7, 10-17; Mt 9, 1-8.
Lời suy niệm: Đức Giêsu xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy. Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi.” (Mt 9,1-2).
Việc Chúa Giêsu chữa lành người bại liệt với một lời nói đầy yêu thương tha thứ: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi.” Đã làm cho những người chứng kiến ngạc nhiên, nhưng đối với các kinh sư, thì họ cho Người nói phạm thượng. Nhưng Chúa Giêsu đã cho họ biết: “Ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội.” Người muốn cho họ biết: “Chính Người đang đồng hóa cách xử sự nhân từ của Người đối với các tội nhân, với cách xử sự của chính Thiên Chúa đối với họ…Con Người của Người làm hiện diện và mạc khải thánh Danh của Thiên Chúa.” (GL 589)
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết cảm tạ Chúa, chính nhờ Chúa trao quyền tha tội cho các Tông Đồ, mà ngày hôm nay chúng con nhận được ơn tha tội, chữa lành và được hòa giải với Chúa Cha, và anh em mình. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-07: Thánh ELISABETH LUSITANIA
(1271 – 1336)
Thánh Elisabeth là con vua Phêrô III nước Aragon, và là cháu vua Giacôbê I. Ngài sinh ra năm 1271 và được đặt tên là Elisabeth, để kính nhớ thánh nữ Elisabeth, hoàng hậu nước Hungari là dì của cha Ngài, mới được đức giáo hoàng Grêgôriô IX tuyên thánh 40 năm trước. Elisabeth ra đời như sứ giả hòa bình, vì khi Ngài sinh ra cha Ngài và ông nội Ngài làm hoà với hau.
Vua Giacôbê muốn tự mình giáo huấn đứa cháu gái. Elisabeth lên sáu tuổi thì ông nội từ trần. Nhưng những chỉ dẫn thánh thiện của ông nội lẫn gương sáng của bà nội đã in sâu trong tâm hồn thánh nữ. Nhận xét về đứa cháu gái của mình. Có lần nhà vua thánh thiện Giacôbê đã nói: – Đây là viên ngọc xứ Aragon.
Lên tám, Elisabeth đã tỏ ra là người trưởng thành. Vào tuổi này Ngài đã bắt đầu đọc kinh nhật tụng và sẽ trung thành đến phút cuối đời. Dầu thân xác yếu đuối, Ngài vẫn sống đời khắc khổ. Ngày áp lễ Đức Mẹ thánh nữ thường giữ chay nhiệm nhặt để dọn mình, không thích chưng diện sang trọng, Ngài sống khiêm tốn hiền hậu. Mọi người trong triều đình coi Ngài như một thiên thần được Thiên Chúa gởi xuống. Cha Ngài cũng phải nhìn nhận rằng: chính lòng đạo đức của con gái mình đã kéo ơn phúc lành từ trời cao xuống cho vương quốc.
Vào tuổi 12, Elisabeth được nhiều hoàng tử chú ý. Sau hai lần từ khước lời cầu hôn của hoàng tử nước Anh và của hoàng tử nước Ý, thánh nữ nhận lời thành hôn với hoàng tử Denis nước Bồ Đào Nha. Trở thành hoàng hậu, Elisabeth vẫn luôn hướng lòng về Thiên Chúa. Ngài dốc toàn lực để chu toàn phận vụ của một hoàng hậu. Nhưng ưu tư quan yếu của Ngài là trang hoàng các thánh đường và cung ứng của ăn áo mặc cho người nghèo. Đối với những ai biết được cuộc sống nhiệm nhặt âm thầm của thánh nữ mà muốn khuyên Ngài giảm bớt, Ngài nói: – Ở đâu cần hy sinh hãm mình hơn là ở trong triều đình là nơi có nhiều nguy hiểm lớn lao.
Ngài thường nói: – Thiên Chúa đặt tôi lên ngai là để tôi làm việc lành cho những người bất hạnh.
Mọi người đau khổ đều được Ngài săn sóc, nhưng Ngài quan tâm hơn tới trẻ mồ côi, nhưng người thiếu nữ cô độc và khốn khổ. Ngài còn tiếp đón khách hành hương, săn sóc các bệnh nhân. Mỗi ngày thứ sáu trong mùa chay, Ngài rửa chân cho 13 người hành khất. Lần kia, hoàng hậu rửa sạch, băng bó vết thương nơi chân một bệnh nhân, rồi âu yếm hôn lên vết thương ấy. Hành động anh hùng này đã được ân thưởng: vết thương được lành.
Đối với những người nghèo khổ mà mắc cỡ, thánh nữ mang của bố thí đến cho họ. Vào một ngày mùa đông, Ngài giấu đồ cứu trợ trong áo. Chồng Ngài bắt gặp và lên tiếng hỏi. Thấy chồng giận dữ, Ngài không dám trả lời. Nhà vua giật áo Ngài ra. Và lạ lùng nhà vua chỉ thấy toàn là hoa hồng. Để ghi nhớ phép lạ này, một cửa vào tu viện thánh Clara do thánh nữ thiết lập được đặt tên là hoa hồng.
Đức bác ái của thánh Elisabeth còn lan rộng tới những miền xa xôi khác nữa, hoà giải các gia đình và các dân tộc lại với nhau. Ngài đã hòa giải vua miền Aragon với vua miền Castille, rồi vua miền Castilia với vua Bồ đào Nha. Như thế Ngài đã dập tắt được nhiều cuộc chiến.
Trong khi mang hạnh phúc đến cho mọi người, thánh nữ lại là người chịu bao nhiêu cay đắng. Denis, chồng Ngài là một nhà cai trị có khả năng, nhưng lại là một người chồng thất tín. Chúng ta nhớ rằng: cuộc hôn nhân của Ngài là một cuộc dàn xếp chính trị và các vua mà giữ được sự tinh khiết thì quả là đặc biệt. Elisabeth không những đã nhẫn nhục và êm đềm chịu đựng sự bất trung của chồng mà còn tận tâm săn sóc những đứa con ngoại hôn của chồng với trọn tình mẫu tử. Dần dần những nhẫn nại và thùy mị đã cảm hóa được Denis.
Câu chuyện sau đây là một ví dụ: Hoàng hậu Elisabeth đã chọn một tiểu đồng nhân đức là Alonsô để phân phát của bố thí. Ghen tức Alonsô, một tiểu đồng khác đã vu cáo là Alonsô có những liên hệ tội lỗi với hoàng hậu. Nhà vua tin lời. Ong ra lệnh cho một chú lò vôi: – Khi một tiểu đồng đến hỏi rằng: “Lệnh nhà vua đã được thi hành chưa ?” thì cứ túm lấy cổ nó mà ném vào lò cho chết.
Hôm sau vua sai Alonsô đi hỏi như trên. Dọc đường anh vào nhà thờ dự ba thánh lễ liền. Còn nhà vua thì nóng lòng, sai tên vu cáo đi dò hỏi sự việc. Hắn tới và bị túm cổ ném vào lò vôi. Hết lễ Alonsô đến hỏi chủ lò vôi rồi về tường trình sự việc cho vua. Nhà vua ngạc nhiên và nhận biết sự vô tội của Alonsô. Ong hối cải và quyết tâm sống xứng đáng với người vợ thánh thiện của mình.
Nhưng rồi một thảm họa đã xảy ra. Hoàng tử Alfonsô nổi loạn. Hoàng hậu Elisabeth rất đau lòng. Ngài thêm lời cầu nguyện, sám hối và bố thí, Ngài đã thành công khi cỡi ngựa vào giữa trận địa, tay cầm thánh giá để ngăn cho khỏi xẩy ra việc đổ máu. Tại Lisbonne vẫn còn tấm đá cẩm thạch ghi dấu sự kiện này. Lợi dụng thời cơ bọn nịnh thần xúi giục nhà vua tin rằng: chính hoàng hậu đã thông đồng với con để khởi loạn. Elisabeth bị giam trong pháo đài Alamquer: nhưng hoàng hậu vẫn nhân từ, Ngài không chống đối theo lời khuyên của các lãnh Chúa mà còn làm cho họ trung thành hơn với vương quyền. Denis nhờ đó nhận biết sự lầm lẫn của mình. Ông công khai hối hận. Năm 1325 Denis từ trần cách thánh thiện sau một cơn bệnh lâu dài và đau đớn, dưới sự săn sóc tận tình của người vợ.
Từ đây Elisabeth cởi bỏ mọi y phục sang trọng, cắt tóc ngắn và nhập dòng ba Phanxicô. Ngài mặc áo dòng và đã sống trong một ngôi nhà cạnh dòng thánh Clara mà Ngài đã thiết lập ở Coimbra. Đời sống Ngài là một gương mẫu cho các nữ tu.
Năm 1336, con Ngài là vua Alphonsô gây chiến với vua miền Castille, người đã xử tệ với vợ mình, là con gái vua Alfonsô. Dầu đã yếu đau, thánh Elisabeth đã đuổi theo và gặp được đoàn quân ở Estremoz. Ngài đã thành công trong việc hòa giải hai nhà vua.
Trong cơn bệnh cuối đời của Ngài, có cả con và cháu hiện diện, Ngài còn được ơn an ủi đặc biệt và được Đức Mẹ đến đón trong lúc hơi thở cuối cùng. Ngài qua đời ngày 4 tháng 7 năm 1336. Đức giáo hoàng Urbanô đã suy tôn Ngài lên bậc hiển thánh.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
04 Tháng Bảy
Củ Cà Rốt Của Tôi
Một lão bà nọ qua đời, được các Thiên Thần mang đến tòa phán xét. Trong khi duyệt xét các hành động của bà lúc còn sống, Ðấng phán xét đã không tìm thấy bất cứ một hành động bác ái nào, ngoại trừ có một lần bà đã cho người ăn mày một củ cà rốt. Tuy nhiên, Ðấng phán xét tối cao đầy lòng nhân từ cũng xem hành động ấy có đủ sức để mang người đàn bà lên Thiên Ðàng. Dĩ nhiên, củ cà rốt sẽ được dùng như sợi xích vững để người đàn bà bám vào và leo lên các bậc trong chiếc thang dẫn về Thiên Ðàng.
Người ăn mày cũng chết vào khoảng trong thời gian ấy. Anh cũng được diễm phúc bám vào gấu áo của người đàn bà để được đưa lên Thiên Ðàng.
Một người khác cũng qua đời vào ngày hôm đó. Người này cũng níu lấy chân của người hành khất. Không mấy chốc, chiếc thang bắt đầu từ củ cà rốt mỗi lúc một dài ra đến gần như vô tận: mọi người đều níu kéo nhau để lên Thiên Ðàng. Nhưng từ trên đỉnh thang nhìn xuống, người đàn bà bỗng châu mày khó chịu. Bà thấy sợi dây mỗi lúc một dài, bà sợ nó sẽ căng ra rồi đứt chăng. Cho nên trong cơn bực tức, bà cố gắng dành riêng cho mình củ cà rốt và la lên: “Các người giang ra, đây là củ cà rốt của tôi”.
Người đàn bà cố gắng giữ củ cà rốt cho riêng mình cho nên sợi dây tạo nên chiếc thang bắc lên Trời bị đứt. Bà rơi nhào xuống đất và cả đoàn người bám víu vào sợi dây ấy cũng rơi theo.
Một tác giả nào đó đã nói như sau: “Nguyên nhân của tất cả các sự dữ trên trần gian đều bắt đầu từ câu nói điều này thuộc về tội, điều kia thuộc về tôi”.
Khi con người muốn chiếm giữ cho riêng mình là lúc con người cũng muốn chối bỏ và loại trừ người khác. Nhưng càng muốn chiếm giữ cho riêng mình, con người không những chối bỏ người khác mà cũng đánh mất chính bản thân mình. Tình liên đới là điều thiết yếu cho sự thành toàn của bản thân chúng ta. Càng ra khỏi chính mình để sống cho người khác, chúng ta càng gặp lại bản thân, chúng ta càng lớn lên trong tình người. Ðó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại bản thân”. Hạnh phúc của bản thân chính là làm sao cho người khác được hạnh phúc.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm – Tuần 13 – TN2
Bài đọc: Amo 7:10-17; Mt 9:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải cẩn thận suy xét Lời Chúa
Lời của Thiên Chúa phán ra sẽ không trở lại với Ngài mà không có hiệu lực (Isa 55:10). Khi con người có cơ hội nghe Lời Chúa, hoặc chính Thiên Chúa phán ra hoặc qua miệng các ngôn sứ, con người cần có thái độ tôn kính học hỏi và khiêm nhường lắng nghe. Sau đó, con người cần suy xét và thi hành những gì Ngài nói thì mới có thể sinh ích cho mình và tránh được những thiệt hại xảy đến trong tương lai.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng hai ví dụ xảy ra cho những người không cẩn thận lắng nghe và khinh thường Lời Chúa. Trong bài đọc I, tư tế Amaziah khinh thường ơn gọi ngôn sứ của Amos, qua việc sai sứ giả tâu lên vua và đuổi Amos về quê quán của mình. Hậu quả là tư tế đã phải lãnh nhận những lời tuyên sấm thiệt hại liên quan đến bản thân, gia đình và đất nước. Trong Phúc Âm, một số các kinh sư kết tội Chúa Giêsu phạm thượng vì dám tha tội, quyền chỉ dành cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội để cắt nghĩa cho họ, nếu Ngài có thể chữa lành bệnh, Ngài cũng có thể lấy đi tội là nguyên nhân của bệnh. Nói tóm, họ phải chấp nhận Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài làm được những việc chỉ Thiên Chúa mới làm được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta.”
1.1/ “Jeroboam sẽ chết vì gươm, và Israel sẽ bị đày biệt xứ.”
Trình thuật kể thái độ của Amaziah đối với ngôn sứ Amos như sau: “Bấy giờ ông Amaziah, tư tế đền thờ Bethel, sai người đến gặp Jeroboam, vua Israel, và thưa: “Amos âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Israel, và đất nước này không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì Amos nói như thế này: “Jeroboam sẽ chết vì gươm, và Israel sẽ bị đày biệt xứ.”
Khi nghe những lời tuyên sấm của ngôn sứ, con người có hai thái độ, hoặc đón nhận và khiêm nhường xét mình để sửa đổi, hoặc tức giận chửi rủa và tìm cách triệt hạ vị ngôn sứ. Tư tế Amaziah chọn thái độ thứ hai.
Amos sinh tại Tekoa, một thành của Judah; nhưng Đức Chúa lại truyền cho ông đi nói tiên tri tại vương quốc Israel. Đó là lý do Amaziah nói với ông Amos: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Judah, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.”
Ông Amos trả lời ông Amaziah: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta.” Amos muốn nói cho Amziah biết: Ơn gọi làm ngôn sứ đến từ Thiên Chúa; nếu Ngài không gọi ông, ông đã không qua Judah để tuyên sấm cho Đức Chúa.
1.2/ Truy tố ngôn sứ không làm vô hiệu hóa sấm ngôn của Đức Chúa.
Người nghe sứ điệp của ngôn sứ phải hiểu ông chỉ là người mang sứ điệp hay chỉ là cái loa của Thiên Chúa, Đấng ban hành sứ điệp. Nếu họ không muốn hậu quả xảy ra, họ có thể chọn một trong hai giải pháp: hoặc họ phải tiêu diệt Người ban hành sứ điệp, điều mà không ai có thể làm nổi, hoặc họ lắng nghe sứ điệp và kiểm điểm con người để sửa đổi. Nóng giận và tiêu diệt ngôn sứ chỉ tăng thêm tội cho họ và làm cho cơn giận của Thiên Chúa càng mau tới.
Amos tuyên sấm cho tư tế Amaziah, không phải nhân danh sự hận thù cá nhân, nhưng là nhân danh Thiên Chúa: “Vì vậy, Đức Chúa phán thế này: “Vợ ngươi sẽ đi làm điếm trong thành phố, con trai con gái ngươi sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, lãnh thổ ngươi sẽ bị phân chia từng mảnh, còn ngươi, ngươi sẽ chết trên một miền đất ô uế.” Và ông lặp lại lời tuyên sấm trước: “Israel sẽ bị đày xa quê cha đất tổ.”
2/ Phúc Âm: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!”
2.1/ Các kinh-sư chất vấn quyền tha tội của Chúa Giêsu: Người ta khiêng đến cho Chúa Giêsu một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!”
(1) Phản ứng của các kinh-sư: Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng!” vì truyền thống Do-thái tin: Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: “Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: “Con đã được tha tội rồi!” hai là bảo: “Đứng dậy mà đi!” điều nào dễ hơn?
Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo: “Con đã được tha tội rồi!” vì chẳng ai có thể xác quyết quyền này. Điều khó hơn là truyền cho bệnh nhân: “Đứng dậy mà đi!” vì ai ai cũng có thể chứng nhận người truyền có thể làm việc ấy hay không. Để chứng minh cho họ biết Ngài có cả hai quyền, Chúa Giêsu truyền cho người bại liệt: “Đứng dậy, vác giường đi về nhà!” Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.
2.2/ Quyền tha tội liên quan đến việc chữa lành:
(1) Chúa Giêsu có quyền tha tội: Truyền thống Do-thái tin bệnh tật là hậu quả của tội. Chúa Giêsu muốn chứng minh cho họ biết: Nếu Ngài chữa lành bệnh tật, Ngài cũng lấy đi tội lỗi, nguyên nhân của bệnh. Chúa Giêsu muốn dùng việc chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội.
(2) Chúa Giêsu là Thiên Chúa: Ngoài ra, như mấy kinh sư tin tưởng: Chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội; mà Chúa Giêsu có quyền tha tội; cho nên Ngài phải là Thiên Chúa. Như thế, lời kết tội Chúa Giêsu của các kinh sư “Ông này nói phạm thượng!” là sai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải tỏ lòng tôn kính và khiêm nhường mỗi khi đọc hay lắng nghe Lời Chúa, vì những lời này sẽ trở thành những bằng chứng để kết tội chúng ta.
– Chúng ta đừng bao giờ có thái độ khinh thường, phê bình, và gây thiệt hại cho các ngôn sứ vì những lời họ rao giảng. Nếu chúng ta làm như thế, chúng ta sẽ gây thêm tội cho mình mà vẫn không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa. Điều tốt hơn là hãy cẩn thận suy xét coi những lời đó ảnh hưởng tới chúng ta làm sao và mau mắn thi hành.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************