Ngày thứ năm (04-10-2018) – Trang suy niệm

03/10/2018

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm Tuần XXVI Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: G 19, 21-27

“Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống”.

Trích sách ông Gióp. 

Ông Gióp nói: “Hỡi các bạn hữu của tôi, ít ra các anh cũng thương xót tôi, thương xót tôi, vì tay Chúa chạm đến tôi. Tại sao các anh như Thiên Chúa bắt bớ hành hạ tôi vậy, và tại sao các anh no chán thịt tôi? Có ai ghi chép giùm lời tôi, có ai viết nó vào sách, dùng bút sắt ghi trên lá chì, hay dùng đục chạm vào đá?

“Vì tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống và ngày sau hết tôi sẽ từ bụi đất sống lại, da sẽ bọc lại thân tôi, và trong xác thịt, tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tôi. Chính tôi sẽ nhìn thấy Người và mắt tôi sẽ trông thấy, chớ không phải ai khác: niềm hy vọng ấy đã chất chứa trong lòng tôi”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 26, 7-8a. 8b-9abc. 13-14

Đáp: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: “Hãy tìm ra mắt Chúa”. – Đáp.

2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ, Chúa là Đấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. – Đáp.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. – Đáp.

ALLELUIA: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! – Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 10, 1-12

“Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.

“Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ‘Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi’. Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: ‘Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần’. Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

04/10/18 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN

Th. Phan-xi-cô Át-si-di

Lc 10,1-12

ĐI TRƯỚC

Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ hai người một đi trước vào tất cả các thành mà chính Người sẽ đến. (Lc 10,1)

Suy niệm: Ngoài “nhóm Mười Hai”, Chúa Giê-su còn tuyển chọn và huấn luyện các môn đệ. Các ông không phải là những người có học thức hay có địa vị xã hội cao hơn nhưng chỉ là người theo Chúa Giê-su, tin vào quyền năng của Chúa và làm theo những định hướng Ngài vạch ra. Chúa Giê-su đã không luôn giữ các môn đệ ‘non yếu’ này bên mình, nhưng sau một thời gian ở với Chúa, các ông được sai đi trước, đến những nơi Chúa sẽ đến để chuẩn bị cho Ngài. Sau ngày Chúa về trời, và được đón nhận Chúa Thánh Thần, các ông tiếp nối sứ vụ của Chúa, nhờ đó ánh sáng Tin Mừng được lan tỏa khắp nơi.

Mời Bạn: Nhiệm vụ “đi trước” này vẫn luôn được tiếp diễn trong Giáo Hội. Lịch sử truyền giáo vẫn luôn có những đoàn  người sẵn sàng đi đến những vùng đất xa lạ, trong những chuyến phiên lưu mạo hiểm đầy thử thách. Phần chúng ta hôm nay, tuy được nhắc nhủ nhiều về bổn phận truyền giáo, nhưng trong thực tế, chúng ta thường không tha thiết đến việc đó bao nhiêu. Nếu có ‘ra đi’ chúng ta đến với những vùng miền đã ổn định, cho một ít ‘phần quà’ và lấy thế làm đủ!

Sống Lời Chúa: Thử xúc tiến vài hoạt động mới mẻ giúp tiếp cận với một vài cá nhân, vài gia đình hay xóm thôn đang cần ánh sáng Tin Mừng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, được làm môn đệ Chúa là vinh dự và hạnh phúc cho chúng con. Xin cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Thần, giúp chúng con vượt thắng nghi ngại sợ sệt, đổi mới cách thức loan báo Tin Mừng, sao cho ngày càng có nhiều người nhận biết Chúa và tôn thờ Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

4 THÁNG MƯỜI

Thánh Phanxicô Assisi, Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải

Khuôn mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.

Lối sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.

Sau khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột: tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột giữa các xóm thôn, các gia đình.

Ở nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng. Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài gặp gỡ.

Người tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ đích thực để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.

Chúng ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa, ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói: “Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó, nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 04/10

Thánh Phanxicô Assisi

G 19,21-27; Lc 10, 1-12. 

LỜI SUY NIỆM: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, đi vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”

            Phương thức Chúa Giêsu sai nhóm Bảy Mươi Hai đi từng hai người một, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Đây là một một phương thức cần thiết mà Giáo Hội ngày hôm nay cần phải dùng đến. Sau khi đã huấn luyện những Tông Đồ Giáo Dân. Trong mọi công tác nếu có hai người cùng đi một công tác, vẫn hơn là một người đơn độc, cũng không nên quá đông người cùng đi với nhau, dễ xãy ra mâu thuẫn trong một vấn đề, còn nếu hai người thì dễ có sự đồng nhất và cũng có thể bổ túc điều thiếu xót cho nhau, để đem lại kết quả tốt đẹp hơn.

            Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con biết khiêm tốn, nương tựa vào nhau trên mọi công tác Tông Đồ Giáo Dân, để công việc truyền giáo đem lại kết quả tốt đẹp cho Giáo Hội.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 04-10

Thánh PHANXICÔ ASSISIS
(1181 – 1226)

Thánh Phanxicô sinh tại Assisi, miền Umbria, năm 1181. Ong Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có, lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ.

Năm 1201, Phanxicô tham gia cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm 1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ, Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và hiến mình chăm sóc các bệnh nhân.

Ngày 16 tháng 4 năm 1206, Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh Damianô. Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống như một ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục, thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa.

Hai năm sau, có lẽ vào ngày 24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được ơn gọi đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô. Có hai người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt 20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản luật vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo hoàng phê chuẩn.

Đức giáo hoàng Innocentê III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và nhiệt tình này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210). Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như các anh em thống hối nghèo miền Assisi.

Năm 1212, Phanxicô khích lệ Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống đời nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà nghèo khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara.

Không bao giờ Phanxicô muốn lập một “Hội dòng”. Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng một cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình thức tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người lãnh đạo mà Ngài gọi là “Hiền mẫu” hay là “tôi tớ” của các nhóm. Hàng năm các anh em họp nhau một lần tại Porziuncola.

Năm 1216, Phanxicô tham dự đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho thánh đường Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là đấng sẽ trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau.

Năm 1219. Nhóm huynh đệ tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes.

Chính Phanxicô, bất chấp những cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống tu trì.

Trước sức ép liên tục, bây giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy, bản luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn về đàng thiêng lêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản trị nhóm huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận chức vụ.

Chính Phanxicô lại lui vào trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224, Ngài đã viết “bài ca mặt trời”. Năm 1226, Ngài viết chúc thư (testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc ân.

Ngày 02 tháng 10 năm 1226, sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi, Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ là ĐGH grêgoriô IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về mai táng tại đại giáo đường do anh Elia xây cất.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

04 Tháng Mười

Bí Quyết Trẻ Trung 

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.

Sống cách chúng ta trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhở, yêu mến như thánh nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.

Sứ điệp của thánh nhân siêu việt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi luôn biết giữ một tâm hồn tươi trẻ. “Tuổi tác không phải là điều kiện thể lý cho bằng bầu khí của tâm hồn”. Có lẽ thánh nhân không phải là người đã nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn ngài đã sống theo châm ngôn ấy.

Ngài biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo lắng, không buồn giận.

Những khám phá của khoa học tâm lý ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ, các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:

– Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá.

– Hãy tập yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.

– Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm.

– Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn rã của trẻ em.

– Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân.

– Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà cũng như cảnh tuyết rơi.

– Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất.

– Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.

– Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.

Không khí, ánh sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những yếu tố cần thiết để tạo cho bầu không khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh Phanxicô Assisi?

Một tâm hồn luôn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên đời này, nhưng còn là một đòi hỏi đối với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không đón nhận nước Trời như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Kính Thánh Phanxicô Khó Khăn

Bài đọc: Gal 6:14-18, Psa 16; Mt 11:25-30

1. CHỦ ĐỀ: Không có gì quí hơn là Thập Giá của Đức Kitô.

            Thánh Phanxicô là con của một thương gia rất giàu có tại Assisi. Cha của ngài là người buôn tơ lụa và muốn ngài nối tiếp sự nghiệp của ông; nhưng Phanxicô được Chúa soi sáng đã sớm nhận ra sự phù hoa của giàu có bằng cách giúp ngài hiểu thấu đáo về mầu nhiệm Thập Giá. Đức Kitô là Thiên Chúa, Ngài có tất cả mọi sự trên trời dưới đất; nhưng đã tự huỷ mình ra không để gánh lấy hình phạt của tội lỗi cho nhân loại. Trên Thập Giá, Ngài nghèo đến nỗi chỉ còn một miếng vải che thân trong khi gánh mọi đau thương của cực hình chỉ vì yêu thương nhân loại.

            Khi đã nhận ra tình yêu này, Phanxicô đã bắt chước gương Đức Kitô để đáp trả lại tình yêu vô bờ Đức Kitô đã dành cho ngài bằng cách từ chối không theo nghề nghiệp của thân phụ. Khi biết rõ ý định của con muốn tận hiến cuộc đời cho Chúa, cha của ngài đã đuổi ngài ra khỏi nhà; và mỗi khi ngài đi khất thực ngang qua nhà, ông xua đầy tớ ra đánh đập, chửi rủa với hy vọng làm cho con đổi ý định. Một lần sau khi đã bị hành hạ, ngài đã cởi bỏ bộ quần áo đang mặc trên người trả lại cho cha và nói, “Đây là của cha, con xin trả lại cho cha; còn thân xác này của Chúa dựng nên từ nay thuộc trọn về Thiên Chúa.” Giáo Hội khi tôn phong ngài, đã gọi ngài là “Nữ Hoàng Khó Nghèo.”

            Các bài đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta hiểu mầu nhiệm giầu có và sâu thẳm của Thập Giá cùng với sự phù hoa của giầu có thế gian. Trong bài đọc I, chắc chắn thánh Phaolô cũng đã cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô dành cho ngài khi suy ngắm về mầu nhiệm Thập Giá. Một khi đã hiểu được mầu nhiệm này, ngài cảm thấy tâm hồn bình an; vì nếu Thiên Chúa đã yêu thương con người bằng cách hy sinh Người Con Một chết cho con người như thế, còn gì có thể làm mà Ngài lại từ chối không ban cho con người? Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn; mà không cho những người khôn ngoan, thông thái. Chỉ có những ai hiền lành và khiêm nhường mới có thể mở lòng trí để đón nhận những mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa, hành động theo những chỉ dạy của Ngài và tìm được sự bình an đích thực cho tâm hồn.

2. PHÂN TÍCH:

1/ Bài đọc I: Niềm xác tín của người môn đệ: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.”

1.1/ Làm sao để có bình an?

            (1) Thập giá Đức Giêsu Kitô là niềm hãnh diện của người tín hữu: Đây là bốn câu cuối cùng của Thư Galat, và thánh Phaolô muốn tổng kết những gì Ngài đã nói với các tín hữu trong toàn Thư. Người tín hữu không được tìm sự hãnh diện nơi bất cứ điều gì thế gian dâng tặng như: uy quyền, danh vọng, tiền của, hưởng thụ… Niềm hãnh diện của người tín hữu là ở nơi Thập Giá của Đức Kitô, vì nhờ cây Thập Giá này mà họ được rửa sạch tội lỗi và được giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên xưng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.”

            (2) Qui tắc để có bình an: Đối với các Kitô hữu, không phải hệ tại ở việc cắt bì, cũng chẳng phải ở việc giữ Luật, nhưng là ở chỗ trở nên một tạo vật mới: theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hoàn toàn sống cho Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy: “Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. Chúc tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của Thiên Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Người.”

            Bình an này có liên kết mật thiết với niềm tin của người tín hữu vào Đức Kitô: một khi đã biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu không còn lo lắng về tội lỗi và về sự chết nữa. Họ biết nếu họ tin và tuân giữ những gì Đức Kitô dạy bảo, họ sẽ được sống đời đời với Thiên Chúa. Chính sự xác tín này làm cho họ được bình an trong tâm hồn.

1.2/ Tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giêsu: Trong cuộc đời, người tín hữu phải đương đầu với biết bao nhiêu những lạc thuyết của thế gian và các tôn giáo khác nhau. Một khi đã biết rõ ràng Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu đừng để cho bất cứ người nào làm lung lay niềm tin của mình, đừng để cho bất cứ sự gì lôi cuốn mình khỏi Thập Giá của Đức Kitô, và đừng để cho những dấu tích của Đức Kitô in trên thân thể bị xóa nhòa. Những “dấu tích” thánh Phaolô nói ở đây có thể là “5 dấu thánh” mà thánh Phanxicô Khó Khăn, thánh Catarina Sienna, hay Cha Piô được chịu; cũng có thể là những đau khổ để lại trên thân xác sau khi đã trải qua những gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô; hay có thể hiểu một cách thiêng liêng: những chứng tích mà bí-tích Rửa Tội để lại trong linh hồn các tín hữu.

2/ Phúc Âm: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”

            Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan và thông thái (sophos, sunetos) với kẻ bé mọn (nêpios), để nói với khán giả: họ cần có thái độ của trẻ thơ là tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Ngài chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Một thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản họ nhận ra những gì Ngài muốn mặc khải cho họ.

2.1/ Kiến thức về Thiên Chúa: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”

            (1) Chúa Giêsu là người biết về Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp dùng ở đây là “epiginôskô,” biết như một con người hay sự vật là. Con người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài là một.

            (2) Con người biết Thiên Chúa qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa không chọn để mặc khải cho con người, con người không bao giờ có thể biết Thiên Chúa. Đức Kitô chính là mặc khải của Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, như Ngài đã tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha.” Hơn nữa, để con người có thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh Thần do Chúa Cha sai tới để hướng dẫn và thúc đẩy từ bên trong.

2.2/ Hai điều quan trọng chúng ta cần học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người môn đệ tuy vẫn phải mang ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo cách của thế gian, mà mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và gánh đúng cách, họ cần phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học nơi Ngài:

            (1) Hiền lành: Đây là mối thứ hai trong Bài Giảng Trên Núi. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền tiêu diệt những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết chết Ngài; nhưng Ngài đã không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Con người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền lành, nhã nhặn, và tha thứ.

            (2) Khiêm nhường: là nhân đức diệt trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối tội đầu. Không ai thích người kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người hay “nổ.” Khiêm nhường là biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm nhường biết mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên họ không huyênh hoang lên mặt với người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở mang Nước Chúa và phục vụ anh em. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa và luôn bất an vì sợ người khác hơn họ. Họ bất an khi không nhận được những gì họ muốn và khó chịu với mọi người.           

3. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:  

             – Chúng ta hãy đến và học với Đức Kitô trên Thập Giá, vì Ngài sẽ dạy cho chúng ta những bài học khôn ngoan mà chúng ta không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu trên thế gian này.

            – Không một ai trên đời này yêu thương chúng ta bằng Đức Kitô. Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta tình yêu thâm sâu của ngài qua cái chết đau thương trên Thập Giá để gánh chịu mọi hình phạt thay cho chúng ta.

            – Nếu chúng ta đánh đổi tình yêu của Đức Kitô cho sự giàu có thế gian, chúng ta đã rơi vào bẫy của ma quỉ và trở thành những kẻ rồ dại và đang thương nhất trên đời.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************