Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Năm Tuần XXXI Mùa Thường Niên Năm lẻ
BÀI ĐỌC I: Rm 14, 7-12
“Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa.
Vì lẽ ấy, nếu Đức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết. Còn ngươi, việc gì mà đoán xét anh em ngươi? Và ngươi, tại sao ngươi khinh miệt anh em ngươi? Vì tất cả chúng ta đều sẽ phải ra trước toà án của Đức Kitô, bởi có lời chép: “Chúa phán rằng: Ta thề trên sự sống Ta, mọi đầu gối sẽ phải quỳ lạy Ta, và mọi miệng lưỡi sẽ ngợi khen Thiên Chúa”.
Vì vậy, mỗi người chúng ta sẽ phải trả lẽ về chính mình với Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26, 1. 4. 13-14
A+B=Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).
A=Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
B=Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người.
A=Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!
A+B=Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).
ALLELUIA: 2 Cr 5, 19
-Thiên Chúa ở trong Đức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 15, 1-10
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: ‘Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!’ Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
“Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất’. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
04/11/2021 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 31 TN
Th. Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô, giám mục
Lc 15,1-10
VUI TRONG CỘNG ĐOÀN
“Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó’.” (Lc 15,6)
Suy niệm: Dù chỉ có một đồng bạc trong số mười đồng bị mất, người phụ nữ cũng “quét nhà, moi móc, tìm cho kỳ được”. Dù chỉ có một con trong số 100 con chiên đi lạc, người chăn chiên cũng lặn lội đi tìm cho kỳ được, và rồi “mừng rỡ vác lên vai” mang về. “Con chiên lạc” không bị loại trừ như một con số lẻ không đáng kể, nhưng có giá trị độc đáo và toàn vẹn khiến cả thiên đàng vui mừng khi nó tìm lại được sự hiệp thông. Đó là hình ảnh báo trước Hội Thánh trong ngày cánh chung được hiệp thông trọn vẹn trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mời Bạn: Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng họ như một cộng đoàn có nam và nữ, là hình ảnh đầu tiên diễn tả cộng đoàn hiệp thông trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Và Hội Thánh, thân thể của Chúa Ki-tô, là khởi đầu của cộng đoàn hiệp thông mầu nhiệm ấy ngay ở trần gian. Trong Hội Thánh, không một ai bị loại trừ. Trái lại, Chúa Ki-tô mong mỏi mỗi người chúng ta lắng nghe tiếng Ngài kêu gọi hoán cải trở về; và chính chúng ta cũng tiếp tay với Đức Ki-tô trong việc tìm kiếm và mở đón anh em trở về đoàn tụ với cộng đoàn. Sự trở về của họ có giá trị lớn lao và là niềm vui cho cả cộng đoàn và triều thần thánh trên trời. Bởi từ nay, họ cảm nhận được lòng nhân từ của Chúa và giá trị to lớn của đời sống cộng đoàn để sống xứng đáng là con cái Ngài.
Sống Lời Chúa: Tham gia và mời gọi nhiều người tham gia vào các đoàn thể và hoạt động tông đồ của giáo xứ.
Cầu nguyện: Hát Kinh Hòa Bình.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả,
nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người,
vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa.
Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi,
đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa.
Trước khi con người hướng về Thiên Chúa
thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người.
“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”
Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau,
nhưng cũng sống vì con người và cho con người.
Hai dụ ngôn hôm nay cho thấy Thiên Chúa quý con người.
Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện.
Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn :
có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng.
Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa.
Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ
có một trăm con chiên hay mười đồng quan.
Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất.
Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được.
Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8).
Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt.
Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang,
người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách.
Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được.
Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất.
Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng.
Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm.
“Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9).
Thiên đàng không cắt đứt với trần thế.
Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10).
Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm.
Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa.
Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa.
Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường.
Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng.
Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy.
Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người.
Hãy để Ngài đi tìm bạn, và cho Ngài niềm vui khi tìm thấy người đã mất.
Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời,
trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn.
Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do.
Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê
mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con
bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,
nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ
đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo
để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,
những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,
xin cho con thức luôn và sáng luôn,
trước nhan Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG MƯỜI MỘT
Lòng Thương Xót Của Chúa Cha
Trong lời nguyện hiến tế của Ngài, Chúa Giêsu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ cho khỏi ác thần (Ga 17,15). Như vậy, lời nguyện hiến tế vừa ca ngợi sự tốt lành của hiệp nhất, vừa là lời khẩn xin tha thiết để mọi sự dữ chống lại hiệp nhất đều có thể được thắng vượt. Do đó, đây cũng là một lời nguyện hoà giải. Sự hoà giải này diễn ra ở những cấp độ khác nhau: nơi chính bản thân mỗi người, giữa các cá nhân, giữa các Kitô hữu, giữa người Kitô hữu và những người ngoài Kitô giáo, giữa các dân tộc và các quốc gia, giữa các khu vực đã phát triển và các khu vực kém phát triển trên thế giới.
Hoà giải là một kinh nghiệm sâu xa thuộc lãnh vực tâm linh con người. Trong hình thức cao nhất của nó, nó là hình ảnh người Cha nhân lành mở rộng vòng tay ôm lấy đứa con bất trị. Anh ta là nạn nhân của cám dỗ muốn xây dựng một thế giới hoàn toàn bởi sức riêng mình, bất cần Cha. Cái trống rỗng của sự chọn lựa ấy, nỗi cô đơn nhức nhối ấy, và hậu quả là phẩm giá của anh cũng chẳng còn … Tất cả đã gây ra những vết thương cần phải được chữa trị tận căn. Anh cần phải quay về và kinh nghiệm lại lòng thương xót của Cha. Vâng, sự hoà giải phải cắm rễ sâu trong cuộc sống chúng ta: hoà giải với Thiên Chúa, với chính mình, với nhau, với các cộng đoàn Giáo Hội khác, bắt đầu bằng một sự biến đổi sâu xa trong tâm hồn mình.
Hoà giải còn mang một chiều kích xã hội nữa. Nó vượt qua những rào cản ngăn cách các tầng lớp xã hội và vượt qua sự xung khắc giữa các quốc gia. Nó tiêu diệt các hình thức kỳ thị đầy bất công. Trên hết, nó ưu tiên tôn trọng phẩm giá độc đáo của mỗi người và tích cực bảo vệ các quyền của con người ở bất cứ nơi đâu mà các quyền ấy bị đe doạ.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/11: Thánh Carôlô Borromêô, giám mục
Rm 14, 7-12; Lc 15, 1-10.
LỜI SUY NIỆM: Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe người giảng.
Với ba dụ ngôn trong Tin Mừng ngày hôm nay cho chúng ta thấy được Thiên Chúa luôn chờ đợi và tha thứ cho mỗi người trong chúng ta. Với dụ ngôn thứ nhất miêu tả Thiên Chúa như là người mục tử đi tìm cho bằng được con chiên lạc; với dụ ngôn thứ hai cho chúng ta thấy được như người đàn bà tìm cho bằng được đồng bạc bị đánh mất và dụ ngôn thứ ba cho chúng ta thấy như là người Cha sắm sẵn áo mới, giày mới và nhẫn mới và đợi chờ người con thứ trở về để tha thứ. Và cả ba dụ ngôn đều có chúng một một niềm vui: “mở tiệc ăn mừng”
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết sám hối những lỗi phạm của mình, và vững tin vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-11: Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ
Giám Mục (1538 – 1584)
Xuất thân từ dòng họ quí phái Lombardo, thánh Carôlô Borrômêô sinh tại Arôna ngày 2 tháng 10 năm 1538, là con thứ trong gia đình, tuổi trẻ đạo đức đã sớm định hứơng cuộc đời Ngài để phục vụ Giáo hội, Ngài đạt bằng tiến sĩ luật ở Paris năm 1559, nhưng tháng giêng năm sau đã triệu vời về Roma. Ở đó Ngài được đặt ngay làm Hồng Y với những trách và cao trọng trong Giáo hội gồm cả chức vụ Tổng Giám mục Milan, và dù còn trẻ cũng đã được trao cho trách nhiệm làm quốc vụ khanh tòa thánh.
Trong quyền hạn này, Ngài kiểm soát mọi giao dịch chính thức của Đức Giáo hoàng, bao gồm nhiều cuộc đám phán khó khăn liên quan đến việc hoàn thành công đồng Tridentinô từ năm 1560-1564. Công đồng kết thúc, Ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565 Ngài mới được đức giáo hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, Ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu Ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa đấng kế vị là Đức Giáo hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.
Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân công đồng Tridentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành giám mục “kiểu mới” của công đồng Tridentinô, Ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác Ngài đã chuyển các sắc lệnh của cộng đồng ra hành động trong Giáo hội công giáo, Ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị giáo tỉnh và mười một hội nghị giáo nhận.
Ngài kiên trì viếng thăm toàn giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của Ngài đã là ảnh hưởng quyết định của Ngài, Ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, Ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính Ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ Ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là Ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi Ngài đang cầu nguyện năm 1569.
Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.
Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính Ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của Ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của Ngài, Ngài đã hiến mình làm hiến tế, bô thí tất cả những gì Ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính Ngài cũng ngủ trên sàn nhà, Ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, Ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định.
Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức tổng giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, Ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng: dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên Ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.
Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ Ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy Ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, Ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, Ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của Ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho Ngài.
Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói: “Kìa cơn mê của giám mục thánh Modène”. Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng Ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, Ngài cười khi người ta khuyên Ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, Ngài lịm vào trong sự tôn thờ.
Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làmcho cả Milan đau đớn. Sủ gia viết truyện đời Ngài nói: “Đêm ấy, ít có ai ngủ được”. Đức Phaolô V đã phong thánh cho Ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
04 Tháng Mười Một
Quo Vadis, Domine?
Ðêm trước ngày vào cơ mật viện để bầu Giáo Hoàng, Hồng Y Karol Wojtyla đã chuẩn bị hành lý để trở về Krakow, tổng giáo phận của ngài. Thế nhưng, ngài đã không trở lại Krakow nữa. Ngày thứ hai, 16 tháng 10 năm 1978, vị Hồng Y 58 tuổi này đã được bầu làm Giáo Hoàng và lấy tên là Gioan Phaolô II. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Ba Lan, là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Italia kể từ 450 năm qua, và tính từ 150 năm trở lại, thì ngài là vị Giáo Hoàng trẻ nhất.
Trong khi chuẩn bị cho bài giảng Chúa Nhật đầu tiên kể từ lúc được bầu làm Giáo Hoàng, Ðức Gioan Phaolô II đã nghĩ đến tác giả của quyển tiểu thuyết giả sử nổi tiếng “Quo vadis, Domine?” là ông Henryk Sienkiewicz, một văn sĩ và đồng thời cũng là một nhà ái quốc Ba Lan. Qua tác phẩm này, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã so sánh tâm tình của mình với vị Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô như được ghi lại trong tác phẩm “Quo vadis,Domine?”, “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Theo tác giả quyển tiểu thuyết giả sử, thì có lẽ thánh Phêrô thích ở lại quanh quẩn bên bờ hồ Genezareth hơn là đến giữa trung tâm của đế quốc La Mã để gặp không biết bao nhiêu chống đối và bách hại. Giữa lúc vị Giáo Hoàng đầu tiên toan tình trốn khỏi La Mã để trở về quê hương mình, thì ngài gặp lại Chúa Giêsu hiện ra đang đi ngược chiều với ngài. Ngạc nhiên về sự xuất hiện của Chúa, thánh Phêrô đã hỏi: “Quo vadis, Domine?” nghĩa là “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Và Chúa Giêsu đã trả lời như sau: “Ta đang đi đến La Mã để chịu đóng đinh một lần nữa”. Hiểu được ý Chúa, Phêrô đã quay trở lại La Mã và ngài ở lại đó cho đến khi chịu đóng đinh.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Carolô Borremêô và mừng bổn mạng một cách đặc biệt của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Mãi mãi tên Carolô gắn liền với tên tuổi và vận mệnh của Ðức Thánh Cha. Hơn ai hết, ngài phải là người kính nhớ và ghi ơn vị thánh bổn mạng nhiều nhất.
Tên thánh được đặt cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa đánh dấu sự đổi đời quan trọng của chúng ta. Từ cái chết trong tội lỗi, chúng ta được tái sinh trong sự sống của Chúa. Hướng đi của chúng ta phải là hướng đi tới Chúa, không thể là bước thụt lùi.
Mang lấy tên thánh Carolô, Wojtyla đã quyết tâm hướng cuộc đời của mình tiến tới trong phục vụ và hy sinh như như chính thánh giám mục Carolô Borremêô. Và khi chọn lấy danh hiệu mới là Gioan Phaolô, vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quyết tâm tiến tới trên con đường mà hai vị tiền nhiệm của mình đã vạch ra… Là người Kitô, chúng ta cũng luôn được mời gọi tiến tới không ngừng trên đường theo chân Chúa Giêsu. Tên thánh mà chúng ta mang lấy trong ngày Rửa Tội, danh hiệu Kitô mà chúng ta được đặt cho phải luôn luôn là một nhắc nhở chúng ta về con đường tiến lên ấy. Chắc chắn con đường ấy không là một con đường rộng thênh thang. Sự tiến lên ấy không là một đà tiến dễ dàng. Phêrô đã quay trở lại La Mã để chịu đóng đinh… Thập giá có lẽ đang chờ đợi chúng ta, chúng ta hãy hiên ngang tiến bước vì đó chính là hướng đi của tất cả những ai mang danh hiệu Kitô.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm – Tuần 31 – TN1 – Năm lẻ.
Bài đọc: Rom 14:7-12; Lk 15:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không ai là một hòn đảo riêng lẻ
Nhiều người nghĩ họ có thể tự lập và tự sống một mình, mà không cần nhờ vả đến ai; nhưng nếu họ chịu khó suy xét, họ sẽ thấy họ không bao giờ có thể làm điều đó. Họ không thể sống mà không có tha nhân, và càng không thể sống nếu không có Thiên Chúa. Trong sự quan phòng và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, mỗi người đều có trách nhiệm chung để giúp đỡ lẫn nhau và lo sao cho mình và mọi người được ơn cứu độ.
Các Bài Đọc hôm nay hướng lòng con người về việc giúp đỡ và xây dựng cho nhau, thay vì xét đoán, phê bình, và luận tội nhau. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô kêu gọi mọi người hãy ý thức về vai trò và sứ vụ của mình trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. Trong Phúc Âm, một số các kinh-sư và biệt-phái phê bình Chúa Giêsu khi Ngài để cho những người thu thuế và tội lỗi đến gần nghe giảng và ăn uống với họ. Chúa thẳng thắn nói ra ý định của mình: Ngài đến kêu gọi những người tội lỗi và triều thần Thiên Chúa vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa.
1.1/ Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa: Lý do thánh Phaolô có thể nói lên được điều này, là vì quan niệm về thần học thân thể của Ngài. Mỗi tín hữu khi chịu bí-tích Rửa Tội đã trở nên chi thể của một thân thể là Hội Thánh, với Đức Kitô là Đầu. Nếu chi thể không thể tách rời thân thể, người tín hữu cũng không thể tách rời khỏi thân thể của Đức Kitô. Một tín hữu có thể nói mình không muốn ở trong thân thể; nhưng không phải vì vậy mà anh không thuộc về thân thể. Nếu anh ý thức được sự hiện diện của anh trong thân thể của Đức Kitô, anh sẽ cố gắng xây dựng Nhiệm Thể của Ngài bằng cách làm cho mình và cho các chi thể khác ngày càng lành mạnh hơn, để toàn thân xác được khỏe mạnh. Vì Đức Kitô đã chết và đã sống lại, Ngài không bao giờ chết nữa; nên người tín hữu cũng vậy. Tuy anh sẽ chết về phần xác, nhưng thân xác anh sẽ sống lại vinh hiển trong Ngày Phán Xét. Vì thế, Phaolô có thể nói với các tín hữu: “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết.”
1.2/ Không được xét đoán tha nhân, nhưng hãy xét mình: Cùng trong hình ảnh các chi thể của một thân thể trên, một chi thể không thể tự cho mình quan trọng hơn hết để rồi phê bình và xét đoán các chi thể khác. Mọi chi thể đều tùy thuộc vào nhau để có thể sống chung hòa hợp và làm cho thân thể lành mạnh và tăng trưởng. Vì thế, thật là điều vô ích khi một tín hữu phê bình và xét đoán người khác; nhưng lợi ích hơn nếu một người dành thời gian phê bình người khác để tự kiểm chính mình, xem coi mình có thể làm gì để đóng góp cho việc mở rộng Nước Chúa, và làm cho các tín hữu khác ngày càng tốt đẹp để cùng nhau xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô. Hơn nữa, người có trách nhiệm phán xét là Đức Kitô, Ngài sẽ phán xét và trả cho mỗi người xứng đáng với việc họ làm trong Ngày Phán Xét.
2/ Phúc Âm: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.
2.1/ Xét đóan tha nhân thay vì xét mình cẩn thận: Một trong những xung đột chính giữa Chúa Giêsu với các Kinh-sư và Biệt-phái là lối sống giả hình. Họ luôn tìm cách bắt bẻ Chúa về việc không giữ luật lệ bên ngòai: rửa tay trước khi ăn, chữa bệnh trong ngày Sabbath; và hôm nay, ăn uống với tội nhân. Trong trình thuật của Luca hôm nay, các người biệt-phái và các kinh-sư xét đóan:
– tha nhân: Họ nghĩ các người thu thuế và gái điếm là những người tội lỗi công khai; và họ tin những hạng người này không bao giờ được chung hưởng vinh quang trong Nước Thiên Chúa.
– Chúa Giêsu: Họ nói: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Theo họ, giao tiếp với những hạng người như thế làm cho con người ra nhơ bẩn tội lỗi. Họ có lý do để nghĩ như thế, vì cha ông ta cũng quan niệm: “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Tuy nhiên, quan niệm này chỉ đúng với người dân thường, yếu đuối; nhưng không đúng cho bậc thánh nhân và Chúa Giêsu. Các Ngài đến để hoán cải những người yếu đuối và tội lỗi.
Trong những trình thuật khác, Chúa Giêsu đã trách mắng họ là những mồ mả tô vôi: bên ngòai có vẻ đẹp đẽ, nhưng bên trong đầy những giòi bọ rúc rỉa. Hãy xét mình và làm cho sạch bên trong trước rồi mới có đủ sáng suốt để xét đóan tha nhân. Trong trình thuật hôm nay, Chúa hướng lòng họ về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân.
2.2/ Chúa dạy con người 2 ví dụ về lòng thương xót của Thiên Chúa.
(1) Tìm được con chiên lạc: Con chiên đi lạc là vì lỗi của nó, đã không chịu nghe theo chủ; nhưng ông chủ chẳng những không xét lỗi nó, mà còn đi tìm cho kỳ được. Ông đi tìm vì nó là của ông, cho dẫu vẫn còn 99 chiên khác. Khi tìm thấy, ông không kết tội, không đánh đập, nhưng mừng rỡ vác chiên trên vai trở về và mở tiệc ăn mừng! Đức Kitô cũng thế, Ngài đến là để tìm kiếm các chiên lạc và đem về cùng một đàn; để chỉ có một đàn chiên theo một Chủ Chiên. Người tội lỗi cũng là con của Thiên Chúa; linh hồn của họ quí giá trước mặt Thiên Chúa, vì Người đã dựng nên họ và máu của Con Ngài đã đổ ra để cứu chuộc họ.
(2) Đồng tiền bị mất: Đồng tiền bị mất là vì chẳng may, cũng như bao con người sa ngã vì hòan cảnh chẳng may đưa tới. Người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được vì nó là của bà, cho dẫu bà vẫn còn 9 quan khác. Khi tìm thấy Bà mở tiệc ăn mừng! Có người đặt câu hỏi Bà có thể phải dùng cả 9 đồng kia để mua thức ăn đãi khách để ăn mừng đồng tiền kiếm thấy!
Cả 2 ví dụ đều kết thúc bằng câu kết luận của Chúa Giêsu: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải năng xét mình cẩn thận để nhận ra chúng ta và mọi người đều là tội nhân trước Thiên Chúa; để rồi đừng xét đoán, phê bình, và kết án tha nhân.
– Thiên Chúa yêu thương tội nhân và sẵn sàng đi tìm họ như Đức Kitô đi tìm Phaolô trên đường đi Damascus, như người mục tử đi tìm con chiên lạc, và như người đàn bà đi tìm đồng bạc đánh mất. Chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ và giúp đỡ tha nhân, nhất là những tội nhân để giúp họ quay trở về với Thiên Chúa.
– Vì Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ cho chúng ta, chúng ta không được quyền kết tội tha nhân như các kinh-sư và biệt-phái, nhưng phải sẵn sàng tha thứ cho họ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************