Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Năm XXXIII Thường Niên – Năm A
BÀI ĐỌC I: 1 Mcb 2, 15-29
“Chúng tôi tuân theo lề luật cha ông chúng tôi”.
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các người trốn ẩn tại thành Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều người trong dân Israel tuân lệnh đến với họ, nhưng ông Mathathia và các con ông cương quyết không chịu theo. Các người vua Antiôcô sai đến, lên tiếng nói với Mathathia rằng: “Ông là thủ lãnh có tiếng tăm và có uy tín trong thành này và có nhiều con cái và anh em. Vậy ông hãy tiến lên trước tiên và thi hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa và những người còn ở lại Giêru-salem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ là bạn hữu của nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác”. Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: “Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác”.
Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành của ông đối với lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử với Zimri con ông Salomi.
Đoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: “Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!” Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 49, 1-2. 5-6. 14-15
Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
A) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng.
B) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán.
A) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Đấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta.
ALLELUIA: x. Cv 16, 14b
– Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 19, 41-44
“Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: “Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng”. Đó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
23/11/2023 – THỨ NĂM TUẦN 33 TN
Th. Clê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo
Lc 19,41-44
BÌNH AN HÔM NAY
“Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi.” (Lc 19,42)
Suy niệm: Ngày 07/10/2023 đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc xung đột kéo dài ở Trung Đông. Sau khi bị đánh úp bất ngờ, quân dân Israel lại ‘vùng lên’ trả đũa gấp nhiều lần với tất cả quyết tâm của mình. Bài Tin Mừng hôm nay là lời Chúa khóc thương cho Giê-ru-sa-lem, và tiên báo cuộc khởi nghĩa của người Do Thái chống lại Rô-ma năm 70, với cái kết bi thảm là thành đô bị thất thủ, tàn phá bình địa: “Sẽ tới những ngày quân thù đắp lũy chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào.” Đức Giê-su khóc không chỉ vì hậu quả đau thương khốc liệt của cuộc chiến. Ngài còn khóc vì dân Chúa “đã không nhận biết thời giờ được Thiên Chúa viếng thăm” và “những gì đem lại bình an” cho họ. Bình an hôm nay là chính Đức Giê-su, Đấng khiêm tốn ngồi trên lưng lừa tiến vào Giê-ru-sa-lem, để viếng thăm và cứu độ Dân Người.
Mời bạn: “Ngay cả hôm nay Chúa Giê-su cũng khóc. Bởi vì chúng ta yêu thích con đường chiến tranh, con đường ghét ghen và con đường hận thù… Thế giới tiếp tục gây chiến. Thế giới chưa hiểu được con đường của hòa bình” (Đức Phanxicô). Bạn đang ở trong con đường nào? Con đường ấy có thật sự đem bình an cho bạn chăng? Bạn nhớ Chúa sai bạn ra đi đến với từng nhà để nói: “Bình an cho nhà này” (x. Lc 10,5).
Sống Lời Chúa: Tôi ý thức loại bỏ những lời nói hành động gây thù hận, bất hoà, để kiến tạo bình an, hiệp nhất.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con tìm thấy bình an trong tâm hồn, rồi diễn tả bình an ấy trong đời mình.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Người ta có thể khóc vì nhiều lý do.
Khóc vì buồn thương, khóc vì tình yêu của mình bị từ chối.
Khóc vì tiếc nuối một điều tốt đẹp bị hủy hoại.
Một người đàn ông khóc là chuyện không thường xảy ra.
Chính vì thế chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Đức Giêsu khóc.
Con Thiên Chúa nhập thể biết đến nỗi đau của phận người.
Giọt nước mắt của Ngài cho thấy Ngài thật sự có một trái tim.
Đức Giêsu khóc khi đến gần và trông thấy thành phố Giêrusalem.
Trong thành Giêrusalem có ngôi Đền thờ lộng lẫy (Lc 21, 5).
Đền thờ ấy là Đền thờ thứ hai được xây sau khi dân lưu đày trở về.
Còn Đền thờ thứ nhất do Salômôn xây, đã bị quân Babylon phá hủy.
Vua Hêrôđê Cả đã trùng tu và nới rộng Đền thờ thứ hai này.
Công việc sửa sang kéo dài từ năm 20 trước công nguyên,
đến năm 64 sau công nguyên mới hoàn tất.
Vào thời gian này, người Do Thái nổi dậy chống lại quân Rôma.
Vào lễ Vượt qua năm 70, thành phố bị vây hãm (c. 43).
Đền thờ bị thiêu hủy sau tám mươi tư năm tu sửa.
Đây là một bi kịch lớn mà Đức Giêsu đã linh cảm với nỗi đớn đau.
Bài Tin Mừng hôm nay
nằm ngay sau biến cố Đức Giêsu lên Giêrusalem lần cuối (Lc 19, 28).
Ngài biết đây là lần cuối, nên giữa bầu khí tung hô của dân chúng,
Đức Giêsu lại rơi vào nỗi đau buồn, xót xa.
Ngài sẽ là vị ngôn sứ phải chết ở trong thành này (Lc 13, 33).
Như mọi người Do Thái khác, Đức Giêsu quý thành phố và Đền thờ.
Thành phố Giêrusalem là thủ đô của đất nước.
Đền thờ là nơi mỗi năm Ngài lên đó dự các lễ lớn đôi ba lần.
Đây là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện (Lc 2, 49; 19, 46).
Nhưng mọi điều tốt đẹp Ngài đang thấy, có ngày sẽ đổ vỡ tan hoang.
“Không để hòn đá nào trên hòn đá nào” (c. 44).
Thiên Chúa là Đấng đã đi thăm Dân Ítraen (Lc 1, 68; 7, 16; 19, 44).
Ngài thăm Dân Ngài qua Người Con là Đức Giêsu (Lc 1, 78).
Ngài đến thăm để đem ơn cứu độ, đem lại bình an (c. 42).
Hôm nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục đi thăm nhân loại.
Ngài vẫn sai Con của Ngài đến với chúng ta để ban ơn bình an.
Nhưng con người hôm nay có thể khép lòng, và để lỡ cơ hội quý báu.
“Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).
Làm sao mỗi Kitô hữu nhận ra thời điểm Ngài đến thăm mình? (c. 44).
Thế giới Tây phương hôm nay đang có khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa.
Họ nhân danh tự do tôn giáo để loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Nhưng không có Trời thì ai ở được với ai.
Nhân loại bị kéo vào những cuộc chiến tranh, thù hận không lối thoát.
Hãy để Thiên Chúa đi vào đời bạn và chi phối những chọn lựa của bạn.
Chỉ trong Thiên Chúa mọi sự mới có nền tảng vững bền.
Nếu không, như Giêrusalem, chúng ta chỉ còn là những bức tường than khóc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG MƯỜI MỘT
Mở Rộng Tấm Lòng Để Đón Nhận
“Bất cứ ai đón nhận em bé này nhân danh Thầy là đón nhận chính Thầy” (Lc 9,48). Lời ấy của Chúa Giêsu soi sáng ý nghĩa của việc đón nhận trẻ em làm con nuôi. Quyết định nhận nuôi một đứa trẻ luôn luôn phát xuất từ tình yêu đối với trẻ em và từ nỗi khát khao được làm cha làm mẹ. Việc nhận con nuôi là một chứng tá độc đáo loan báo cho thế giới thấy tấm lòng rộng mở để chia sẻ sự sống và tình yêu tự nguyện đối với một đứa trẻ đang cần có cha mẹ và cần một mái ấm gia đình.
Dù trong thời đại chúng ta những đám mây đen đang vần vũ trên các gia đình, chúng ta vẫn được khích lệ bởi vô số những tấm gương quảng đại rực sáng lên trong các gia đình Kitôhữu. Chúng ta ngập tràn hy vọng khi nhìn thấy các chứng tá ấy. Những sự chọn lựa theo tinh thần Kitô giáo thường trái ngược với não trạng thế gian xung quanh chúng ta. Những sự chọn lựa ấy sẽ thách đố và chất vấn những người cần nghe Tin Mừng, những người có khuynh hướng muốn sống một cuộc sống đóng kín và ích kỷ. Việc nhận con nuôi là một dấu hiệu qua đó các gia đình Kitôhữu tuyên bố rằng mình không muốn khép kín nơi chính mình – trái lại, muốn mở ra đón nhận một đứa trẻ đáng thương và nhận một trách nhiệm cao cả cách vui tươi và vô vụ lợi.
Quyết định nhận con nuôi không bao giờ là một quyết định dễ dàng. Thật vậy, quyết định đó luôn luôn kèm theo với nó những bổn phận hết sức quan trọng và phức tạp. Tuy nhiên, đó là một quyết định có sức làm phong phú cộng đồng.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng trong thời đại chúng ta ngày càng có nhiều gia đình ước ao nhận ocn nuôi. Đây rõ ràng là một chiều hướng tích cực. Đây là một sự đáp trả đầy yêu thương trước một tiếng gọi cao cả. Đó là lý do tại sao tôi muốn bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những gia đình đang đảm nhận công việc quan trọng này. Tôi cũng muốn khích lệ công việc của những người liên hệ đến việc giới thiệu nhận con nuôi. Xin Chúa chúc lành cho công việc đầy ý nghĩa này và chúc lành cho mọi gia đình đang nuôi dạy những đứa con nuôi một cách đầy yêu thương và quảng đại.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 23-11
Thánh Clêmentê I, giáo hoàng tử đạo
Thánh Côlumbanô, viện phụ
1Mcb 2, 15-29; Lc 19, 41-44.
Lời suy niệm: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi.”
Càng gần đến ngày cuối năm phụng vụ. Giáo Hội cho chúng ta nghe lại lời của Chúa Giêsu: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi.” Lời Chúa cho chúng ta thấy được Người đang băng khoăn, lo lắng cho phần rỗi linh hồn của mỗi người trong chúng ta. Bởi vì con người ngày hôm nay, con người đang sống trong một thế giới với chủ trương tất cả chỉ là tương đối, tạo nên một văn hóa dững dưng, vô cảm, vô trách nhiệm đối với nhau. Làm cho họ đánh mất đi sự bình an trong chính họ.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho tất cả chúng con được sống trong một nền văn hóa tình thương và sự sống; luôn nhận biết Thiên Chúa là Cha, và tất cả đều là anh em với nhau, để sống với tình huynh đệ trong sự bình an Chúa ban. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 23-11: Thánh CLÊMENTÊ I
Giáo Hoàng Tử Đạo
Người ta biết được về thánh Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong 10 năm chỉ nhờ bức “thư gởi giáo hữu Corintô” thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những chứng thư đầy huyền thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc dòng dõi Giacop. Sinh tại Roma, được nuôi dưỡng trong Do thái giáo.
Thánh Clêmentê đã nghe theo những diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành môn đệ các Ngài. Ngài đã theo thánh Phaolô trong các hành trình đi truyền giáo và đã trở thành đấng kế vị thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang bách hại các Kitô hữu biết được rằng: vị giáo hoàng đã đem được nhiều người trở lại đạo. Ông kết án Ngài phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia Bắc Hải, trong các miền hoang vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu cảnh khát nước thảm khốc.
Tương truyền rằng thánh Clêmentê cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một con chiên ghi dấu chân đúng vào chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên làm giảm khát cho người mang án. Các bức tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu tượng một con chiên đứng trên ngọn núi xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh Clêmentê đã dùng lời nói và phép lạ để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ giả tới cột cổ Ngài vào một cái neo rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành. Nhưng trong khi các tín hữu cầu nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một cách lạ lùng và có thể đưa xác vị tử đạo lên đất liền.
Điều chắc chắn kính là bức thư của thánh Clêmentê đã thành một trong các tài liệu quí giá của Kitô giáo thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến Đức giáo hoàng để tìm hoà giải những cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp thư của Ngài. Những thư này được đọc cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của thánh Clêmentê chứng thực việc thánh Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc Nêrô bắt các Kitô hữu làm trò mua vui. Thư cũng gợi ý cho chúng ta việc tổ chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao khác, thánh Clêmentê đã nói:
– “Ai mạnh hãy lo cho người yếu. Người giầu hãy giúp đỡ người nghèo và người nghèo hãy chúc tụng Chúa và điều Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ. Người khôn ngoan hãy tỏ ra khôn ngoan không phải chỉ trong lời nói mà còn trong các việc lành. Người khiêm tốn đùng nóí gì về mình và đừng tìm phô diễn hành động của mình. Người lớn không thể tồn tại mà không có người nhỏ và người nhỏ cũng không thể tồn tại mà không có người lớn… Thân thể không thể bỏ qua sự phục vụ của những chi thể nhỏ bé hơn.
Các tín hữu còn học biết bằng qua những âu lo vô ích và sống đời sám hối, mỗi người phải biết vâng phục để trở nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên Chúa. Đức Kitô đã không đến trong kiêu sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực. Vậy phải nên thánh và tín thác cho Chúa.
Chỉ một bức thư này còn quan trọng trong sự thật vượt xa mọi truyện thần thoại.
*******************************
Ngày 23-11
Thánh CÔLUMBANÔ
Tu Viện Trưởng (….. – 615)
Thánh Côlumbanô sinh tại Kildare hay Carlow vào giữa thế kỷ thứ VI, một thời kỳ mà danh tiếng các dòng tu Ai Nhĩ Lan đã bắt đấu nổi danh trên khắp thế giới Kitô giáo. Khi ấy người ta tuôn đến các hòn đảo của các thánh nhân để học hiểu văn chương và nghệ thuật trong các tu viện.
Côlumbanô có một trí khôn đặc biệt hứa hẹn những địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng Ngài ưu tư vì những nguy hiểm mà sắc đẹp bày ra cho Ngài. Ước muốn duy nhất của Ngài là sự thánh thiện, Ngài quyết giã từ thế gian để sống trong tu viện. Nhưng mẹ Ngài không thể xa con một khi Côlumbanô gia nhập hàng giáo sĩ. Ngày thánh nhân lên đường, mẹ Ngài nằm khóc ngang ngưỡng cửa. Côlumbanô phải bước qua mình mẹ để đáp lời gọi của trời cao. Sau khi vượt qua được cuộc chiến bi đát này, không còn gì phải trả để Ngài tiến tới trên đường hòan thiện nữa.
Trước hết Côlumbanô theo học tại Lough Erne một trường ở Cleenish, rồi sau đó ở Banger, ngôi trường quan trọng ở Ai Nhĩ Lan thời đó.
Tu viện Banger có hơn 3000 tu sĩ dưới sự dẫn dắt của thánh Comgall và đã đưa ra nhiều mẫu gương anh hùng trong đời sống khổ hạnh. Côlumbanô dạy học tại đây 10 năm. Lúc ấy Ngài khoảng 40 tuổi. Thánh Comgall sai Ngài và một số tu sĩ đi truyền giáo tại Gaule, trong đoàn truyền giáo này con có thánh Gall. Các tu sĩ vượt biển đến vương quốc Austrasia. Thánh Côlumbanô đã từ chối lãnh địa mà vua Sigebert cho để thành lập tu viện. Suốt 14 năm, Ngài sống đời lang thang để rao giảng Tin Mừng. Dân chúng thán phục những người ngoại quốc đã tới yêu mến giúp đỡ họ trong khi tự ép mình sống đời nghèo khó nghiêm nhặt này, Họ đổi lòng và đến lượt họ cũng yêu mến Thiên Chúa, thương yêu người khác.
Danh tiếng của Côlumbanô vang tới triều đình Bourgogne của vua Gontran. Đứng trước ân huệ Ngài đã thực hiện cho dân cư, nhà vua hỏi vị tu sĩ muốn gì để ở lại trong vương quốc của ông. Thánh CÔLUMBANÔ trả lời: – “Tôi không có của cải nào hết ngoài việc thực hiện Tin Mừng và vác thánh giá, bỏ mình và theo Chúa Giêsu Kitô”.
Nhà vua đã hiến cho thánh nhân một pháo đài hoang phế ở Haute Saonê để làm nhà ở. Lần này thánh Côlumbanô nhận lời. Lều rộng nhất dùng làm nhà nguyện. Của ăn thường xuyên của các tu sĩ là rễ cây, thỉnh thoảng có được một chút thực phẩm.
Dân chúng miền phụ cận nghe nói về những người này của Thiên Chúa đã đưa các bệnh nhân tới xin cầu nguyện. Nhiều người muốn bắt chước và chia sẻ cuộc sống của các Ngài. Thánh Côlumbanô phải thiết lập một tu viện thứ hai ở Luxeuil. Dầu đây là nơi nghèo khổ, ẩm thấp. Nhưng một ít năm sau đã trở nên một tu viện phồn thịnh, thành thủ phủ các đời viện tu. Các môn sinh không ngừng đổ tới. Nhiều lãnh Chúa hiến dâng tài sản “phát tích qui y” tự ép mình làm việc tay chân khai khẩn ruộng đất như người nghèo. Cả các bệnh nhân cũng được chia sẻ cuộc sống này tùy sức họ có thể đóng góp. Cuộc sống cầu nguyện và làm việc giữ được sự cân bằng chưa hề có cho tới lúc ấy.
Thánh Côlumbanô điều hành mọi chuyện và đôi khi lui về chòi tu của Ngài gần Annecy để viết luật, dựa trên tình mến Chúa yêu người, hy sinh cầu nguyện chung, việc làm tay chân không được ngăn trở kinh nguyện thâm sâu trong lòng. Ngài nói: – Cả đời chúng ta đều diễn tiến như một ngày. Tình yêu ước muốn hứơng thượng, chúng ta tìm về quê hương nơi cha ngự trị.
Một thời gian sau, Ngài thiết lập một tu viện thứ ba ở Phontaines.
Tuy nhiên các tu sĩ phải trải qua một cơn thử thách. Cả các giám mục Pháp lẫn hai triều đình không giữ mãi được thiện cảm. Các tu sĩ Ai Nhĩ Lan vẫn cử hành lễ Phục sinh theo nghi lễ Celtie. Và các giám mục dựa vào chiêu bài này để triệu vời Côlumbanô tới một hội nghị. Thánh nhân cáo lỗi và gửi một lá thư hùng hồn “xin cho được sống im lặng trong rừng sâu bên cạnh xương tàn của 17 anh em đã chết”. Đồng thời Ngài cũng đề nghị là có nhiều vấn đề cấp bách hơn ý kiến khác nhau về phụng vụ mà các giám mục cần quan tâm.
Vua nước Bourgogne có 4 người con ngoại hôn. Sự kiện các giám mục thường lui tới triều đình mà không bao giờ cảnh giác các gương mù này, chứng tỏ tình trạng Kitô giáo thấp kém thời đó. Vua Thierri kế vị cha là Ghentran dưới sự bảo trợ của hoàng thái hậu Brunehaut có một đời sống phóng đãng. Những lời trách cứ của thánh nhân làm bà hoàng tức giận. Dầu có cảm tình với vị tu viện trưởng, bà cấm không cho người vào tu viện Luxeuil. Thế là chỉ còn cách trục xuất Ngài đi. Các tu sĩ muốn theo Ngài, nhưng bà hoàng ngăn cản chỉ cho các tu sĩ có máu Ai Nhĩ Lan đi. Bị bắt giam tại Bessanson, Côlumbanô trốn thoát được. Không ai được cung cấp đồ ăn cho các Ngài, cũng không được cho trú ngụ. Ở Tours, vị tông đồ đã cầu nguyện bên mộ thánh Martinô và tiên báo Thierri sẽ mất ngôi cho vua Clotaire II, người sẽ nối lại vương quốc Pháp. Thierri gửi lệnh cấm tàu cho tới Nantes là nơi Ngài phải đáp tàu về Ai Nhĩ Lan. Từ hải cảng này vị tu viện trưởng đã viết cho các bạn còn lại Luzeuil một lá thư rất thời danh.
Côlumbanô đáp tàu đi tới Ai Nhĩ Lan, nhưng cơn bão nổi lên đưa tàu vào bờ. Ngài tin đây là ý Chúa quan phòng và lên đường đi Neustrie. Ngài giảng đạo cho vua Clotaire II, làm cho vua và triều thần chấp nhận Kitô giáo. Rồi Ngài đi Metz. Người ta đem con ra đón đường xin Ngài chúc lành. Ơn gọi tu dòng chỗi dậy khi Ngài đi qua. Quyết lòng rao giảng Tin Mừng cho những người thờ ngẫu tượng, nhà truyền giáo ngược sông Rhin và cùng với vài môn sinh tới hồ Zurich, dân cư ở dây nổi tiếng hung dữ. Nhà chép sử kể rằng: ngày kia dân chúng cho thần Wodon một bình đầy bia. Thày dòng liền thở và bình vỡ tan. Môn sinh của Ngài là Gall còn đốt các ngẫu tượng buộc thánh Côlumbanô không được chọc tức dân chúng nữa. Ngài lui về gần hồ Constance.
Với sự trợ giúp của thánh Gall, Ngài lập một tu viện, nhưng dân chúng vùng lên cận thù ghét. Vùng này rơi vào quyền hạn của Thierri người vừa mới giết em mình là Thibert. Sau khi vượt mọi khó khăn, Côlumbanô ra đi và để thánh Gall ở lại.
Sau khi vượt dãy núi Alpes, vị tông đồ già cả tới vùng đất của dòng họ Lombarnô. Nơi đây Ngài phải chống lại lạc giáo Ariô và bị trục xuất một lần nưã. Lui về chân dãy núi Appennins, Ngài thiết lập một tu viện Bobbiô, vua Clotaire lúc này đã nắm quyền và mời Ngài trở lại nước Pháp. Nhưng thánh nhân thấy đời gần tàn chỉ viết thư xin vua sống theo tinh thần Kitô giáo sâu xa hơn. Vua đã kính cẩn nhận lời khuyên và bao bọc tu viện Luxeuil. Thánh Côlumbanô không ngừng thư từ cho các tu sĩ và từ hang động ẩn tu của mình, Ngài viết thư bằng văn vần để giã từ bạn bè trước khi qua đời, ngày 23 tháng 11 năm 615.
Công cuộc của Ngài triển nở mạnh mẽ sau cái chết của Ngài. Luxeuil trở thành trưởng phái tu viện quan trọng trong thế kỷ VII và còn tồn tại tới cuộc cách mạng Pháp. Bobbiô trở thành tu viện Monte Cassinô miền Bắc Otalia. Ngày nay dân Bắc Italia rất sùng kính Ngài, với 34 giáo xứ được dâng kính Ngài.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
23 Tháng Mười Một
Tấm Gương Trong Lâu Ðài Versailles
Lâu đài Versailles ở ngoại ô Paris là một trong những danh lam thu hút nhiều du khách nhất. Trong lâu đài, nơi mà du khách cảm thấy bị giữ chân lâu nhất đó là phòng khánh tiết bằng pha lê, được trang bị bằng hàng ngàn tấm kính từ trên trần nhà đến các vách tường.
Du khách sẽ ngỡ ngàng vì một hiện tượng lạ lùng: Nếu bạn đưa tay ra và chỉ về một phía nào đó, bạn sẽ thấy có hàng trăm ngàn cánh tay và hàng ngàn khuôn mặt đang hướng về bạn như đang ngắm nhìn bạn. Bạn sẽ cảm thấy như mọi người đang chú ý đến bạn. Nhưng nhìn cho kỹ thì tất cả những cánh tay, tất cả những khuôn mặt đó đều là của bạn.
Ðó là hình ảnh của mỗi người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng cho mình là quan trọng nhất. Tất cả mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi lời nói, đều tập trung vào bản thân chúng ta và trong lòng chúng ta không còn một chỗ trống nào dành cho người khác.
Cái tôi trong chúng ta có thể là một trở ngại cho tương giao giữa chúng ta và người khác cũng như tương giao giữa chúng ta và Chúa. Sự sống của Chúa chỉ có thể lớn mạnh trong chúng ta và sự sống của chúng ta chỉ có thể triển nở là lúc chúng ta thực sự sống cho Chúa. Lời của Ngài phải tiêu diệt cái tôi ích kỷ trong chúng ta để chúng ta có thể lớn lên trong Người. Nói như thánh Gioan Tẩy Giả khi gặp chúa Giêsu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Thưa bạn, đó là bí quyết trong cuộc sống của người Kitô chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Tạ Ơn
Bài đọc: Sir 50:22-24; 1 Cor 1:3-9; Lk 17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cám ơn Thiên Chúa
Tổ tiên của nước Hoa Kỳ đã để lại cho con cháu một di sản quí báu là ngày Lễ Tạ Ơn. Cám ơn Thiên Chúa là một điều phải làm vì không ai trong chúng ta không nhận ơn của Thiên Chúa trong năm vừa qua: ơn phần hồn, ơn phần xác, ơn cho cá nhân, gia đình, cộng đoàn và quốc gia. Đã nhận ơn phải biết ít nhất nói lời cám ơn, sau đó tìm dịp để trả ơn cho người đã thi ơn. Ba điều chúng ta có thể làm trong ngày Lễ Tạ Ơn là cầu nguyện, tham dự thánh lễ và sống tâm tình biết ơn với gia đình và những anh chị em nghèo khổ.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhiều chất liệu suy tư trong ngày Lễ Tạ Ơn. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca dạy chúng ta ba điều: Trước hết, chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm cho chúng ta biết bao ơn lành trong quá khứ. Tiếp đến, ông dạy chúng ta xin Thiên Chúa ban cho chúng ta được niềm vui và an bình trong giây phút hiện tại. Sau cùng, ông dạy chúng ta xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và bảo vệ chúng ta khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác trong tương lai. Trong bài đọc II, thánh Phaolô hướng lòng chúng ta lên Đức Kitô vì Ngài là nguồn mạch của mọi ân sủng và bình an. Ngài đã mặc khải cho chúng ta những mầu nhiệm của Thiên Chúa; nếu không có Đức Kitô, chúng ta không thể nào hiểu được. Ngài cũng trợ giúp chúng ta trung thành với Thiên Chúa qua các ơn thánh Ngài đã thiết lập được trong Cuộc Thương Khó và cái chết của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự vô ơn của đa số nhân loại qua việc chữa lành mười người phong hủi. Dầu Chúa đã chữa lành cả mười người, nhưng chỉ có một người quay trở lại cám ơn Thiên Chúa; mà người đó lại là một người dân ngoại Samaritan! Ôi đau đớn và tệ bạc thay! Đến nỗi Chúa phải đau lòng thốt lên, “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giờ đây chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa muôn loài.
1.1/ Tạ ơn vì những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta và mọi người trong quá khứ: Con người chúng ta được bao vây bởi vô vàn hồng ân của Thiên Chúa. Trong những hồng ân này, có những điều vĩ đại Thiên Chúa làm cho mọi người. Ví dụ, việc tạo dựng và trao cho con người cộng tác với Ngài để điều khiển thế giới; việc cứu chuộc qua sự kiện Chúa ban cho con người Đức Kitô, người con một của Ngài, để lấy đi tất cả tội lỗi cho con người và mang lại cho con người ơn cứu độ muôn đời; việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục ở lại, dạy dỗ và bảo vệ con người. Có những hồng ân Thiên Chúa làm cho từng cá nhân một. Ví dụ, cho được hiện hữu trong cuộc đời, cho được làm quí tử của Ngài, tiền định cho được sống hạnh phúc đời đời, ban muôn vàn ơn thánh và bảo vệ con người trong những ngày họ sống trên dương gian.
1.2/ Xin Thiên Chúa cho chúng ta niềm vui và bình an trong giây phút hiện tại: Tuy Ngài bao vây con người với muôn vàn ơn thánh như thế, nhưng con người vẫn có thể buồn sầu và bất an vì không biết xử dụng ơn thánh và tự do Thiên Chúa ban. Vì thế, con người cần xin Thiên Chúa mở lòng trí để biết chọn lựa những gì đưa đến niềm vui, bình an và hạnh phúc; chứ không chọn lựa những gì đem lại bất an, đau khổ và sầu buồn.
1.3/ Xin Thiên Chúa bảo vệ chúng ta khỏi mọi chước cám dỗ và nguy hiểm trong tương lai: Con người cần ý thức rõ ràng về sự hiện diện của ba kẻ thù trong đời sống; đó là: quỉ thần, thế gian và xác thịt. Cả ba kẻ thù này đều mạnh hơn và có thể làm cho con người rơi vào chước cám dỗ của chúng. Vì thế, con người cần xin Thiên Chúa ban thêm ơn khôn ngoan để nhận ra và ơn sức mạnh để chiến đấu, để họ khỏi sa vào những chước cám dỗ và phải chịu những hậu quả tai hại của sự dữ trong tương lai.
2/ Bài đọc II: Sự cần thiết của Đức Kitô trong cuộc đời
Lịch sử Cứu Độ được lật qua trang mới sau Thời Lưu Đày, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài, Đức Kitô nhập thể để cứu độ trần gian. Nếu trong Cựu Ước, người Do-Thái không thể sống vắng bóng Thiên Chúa; thì trong Tân Ước, người Kitô hữu cũng không thể sống vắng bóng Đức Kitô, vì:
2.1/ Đức Kitô là nguồn mạch ân sủng và bình an: Thánh Phaolô cầu nguyện cho các tín hữu Côrintô: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu.” Qua Cuộc Thương Khó của Đức Kitô, Ngài đã đem lại bình an và rất nhiều ân sủng cho con người. Con người có bình an vì con người nhờ Đức Kitô mà được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Đức Kitô cũng là nguồn mạch mọi ân sủng cho con người, nhất là qua các Bí-tích.
2.2/ Đức Kitô mặc khải cho con người sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Quả vậy, trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.” Nếu không có Đức Kitô mặc khải, con người không thể hiểu rõ ràng Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa và rất nhiều các Mầu Nhiệm khác trong đạo.
2.3/ Đức Kitô giúp con người trung thành đến cùng: “Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em điều gì trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” Nhờ hiểu biết rõ ràng về Kế Họach Cứu Độ qua Tin Mừng, và được nâng đỡ bằng các ân sủng của Đức Kitô, con người có thể vượt qua những gian khổ của cuộc đời để trung thành với Thiên Chúa. Ngòai ra, con người cũng biết chuẩn bị mọi hành trang cần thiết để ra trước Tòa Phán Xét của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?
3.1/ Phải biết ơn trước khi cám ơn: Trên đường lên Jerusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilee. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”
(1) Tình trạng bi thảm của những người phong cùi: Vì người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên ngòai, những người phong cùi không được ở chung với dân; mà phải sống cách biệt bên ngòai làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực tiếp với dân và phải la lớn để mọi người được biết sự có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
(2) Để chứng tỏ mình đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh họat bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi trên đường thì họ được sạch.
Bệnh cùi có thể được ví như tội lỗi, nhất là tội kiêu ngạo và bất tuân Thiên Chúa và bề trên (gương của bà Miriam bị cùi). Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta biết bao tội trong cả năm qua, Ngày Tạ Ơn chẳng lẽ chúng ta không cám ơn lòng thương xót của Ngài!
3.2/ Những người “ở ngòai” dễ nhận ra ơn hơn những người “ở trong”:
– Tâm tình biết ơn của người Samaria: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria. Đức Giêsu nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
– Người Do-Thái khinh thường và sống xa cách với người Samaria. Điểm lạ ở đây là chín người phong Do-Thái khi bị chính dân mình khai trừ đã mở rộng vòng tay cho người phong Samaria được sống chung với họ. Khi con người bị đau khổ và bỏ rơi, có lẽ con người dễ đòan kết và sống chung với nhau hơn.
– Người Samaria, tuy bị người Do-Thái khinh thường, nhưng nhiều lần được chính Chúa Giêsu khen tặng. Trong câu truyện “Ai là người thân cận của tôi?” Chúa Giêsu đã đề cao người Samaria Nhân Hậu hơn các thầy tư tế và Lêvi, vì ông là người biết tỏ lòng thương xót với người bị đánh trọng thương dọc đường: ông đã vực người trọng thương lên lừa và đưa về quán trọ săn sóc cẩn thận và hứa sẽ trả mọi phí tổn tương lai cho chủ quán trọ (Lk 10:30-37). Trong cuộc đàm thọai giữa Đức Kitô và người phụ nữ xứ Samaria, chị đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên của Chúa Giêsu, nhiệt thành loan báo về Người cho các dân trong làng của chị (Jn 4:39-41).
– Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn: Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Không phải chỉ được thanh sạch bên ngòai, anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu độ.
3.3/ Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn. Vì thế, họ vô ơn:
(1) với Thiên Chúa: Đấng đã dựng nên và không ngừng ban mọi ơn lành cho họ. Ngày Lễ Tạ Ơn là dịp để con người nhận ra và tạ ơn Thiên Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ và làm ơn cho những người kém may mắn; nhưng thử hỏi được bao nhiêu người làm những điều này? Thay vào đó, họ lo tổ chức ăn uống vui chơi cho bản thân và cho gia đình họ.
(2) với cha mẹ: những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ họ trong suốt một phần tư của cuộc đời. Lẽ ra, khi cha mẹ về già không còn tự săn sóc mình được nữa, họ phải phụng dưỡng và săn sóc trở lại, thì họ lại cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi mình: “chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”
(3) với tha nhân: những người đi trước nhiều khi đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, xây dựng, và phát minh ra những tiện nghi mà chúng ta đang được hưởng. Bổn phận của những người thụ hưởng là tiếp tục để làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn chứ không phải chỉ ù lỳ thụ hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Lễ Tạ Ơn là ngày chúng ta phải dành trọn vẹn để cám ơn Thiên Chúa, chứ không phải là ngày ăn uống linh đình, coi football hay đi sắm đồ cả ngày. Chúng ta phải cẩn thận đề phòng để khỏi bị rơi vào những chước cám dỗ của quỉ thần và giới con buôn.
– Để tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta cần làm ba việc: cầu nguyện để nói lên tâm tình biết ơn, tham dự Thánh Lễ để cùng dâng lên Thiên Chúa hy lễ đẹp ý Ngài nhất, và sống trong tâm tình biết ơn bằng cách chia sẻ tình yêu với những người trong gia đình và những anh chị em nghèo.
– Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************