Ngày thứ sáu (03-11-2023) – Trang suy niệm

02/11/2023

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần 30 Thường Niên

BÀI ĐỌC I: Rm 9, 1-5

“Tôi đã ước ao được loại khỏi Đức Kitô vì phần ích anh em của tôi”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Đức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần, là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Đức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luầt, việc phượng tự và lời hứa; các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Đức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20

A+B=Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! (c. 12a).

A=Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi; Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội.

B=Người giữ cho mọi bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo.

A=Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người.

ALLELUIA: Tv 118, 36a và 29b

-Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 14, 1-6

“Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: “Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?” Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Đoạn Người bảo các ông rằng: “Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?” Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy. Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

03/11/2023 – THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 30 TN

Th. Mác-ti-nô Po-rét, tu sĩ

Lc 14,1-6

NHÂN PHẨM CAO QUÝ

“Ai trong các ông có con trai hay con bò sa xuống giếng, mà lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát ?” (Lc 14,5)

Suy niệm: Dùng hình ảnh đứa con trai hoặc con bò của ai đó rớt xuống giếng trong ngày sa-bát, Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh tới tính cách khẩn cấp cuộc việc cứu nạn. Vì sự thân thiết với đứa con ruột rà, vì giá trị vô song của mạng người hay vì tầm quan trọng của một món tài sản lớn mà người ta được phép làm công việc cứu hộ dù là trong ngày sa-bát. Thế mà những người Pha-ri-sêu lại ném cái nhìn hằn học cho Chúa Giê-su như thể Ngài là “kẻ phá bĩnh” lề luật vì đã chữa lành cho người phù thũng trong ngày sa-bát. Thật chua xót! Phẩm giá con người bị hạ thấp đến độ không còn được kính trọng, thậm chí không giá trị bằng một con vật! Và càng chua xót hơn, khi người ta nại đến lề luật, nại đến Thiên Chúa để biện minh cho thái độ đó.

Mời Bạn: Đối với Thiên Chúa, con người luôn luôn có giá trị tuyệt đối. Con người không chỉ cao quý hơn muôn vật vì được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, mà con người còn được cứu độ và được nhận làm nghĩa tử của Ngài. Quả thế, dù Thiên Chúa đã hoàn thành công việc sáng tạo và “ngày thứ Bảy, Ngài nghỉ ngơi” (x. St 2,2), nhưng “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta” (Kinh Tin Kính), Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế, chịu chết để phục hồi cho con người phẩm giá làm con cái Thiên Chúa. Vậy bạn là ai mà dám coi thường giá trị một con người? Bạn nghĩ gì về những hình thức mà phẩm giá con người ngày nay đang bị chà đạp?

Sống Lời Chúa: Yêu thương kính trọng với người khác qua cách cư xử thân ái và lời nói có lễ có tình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Sau khi dự nghi thức ở hội đường vào ngày sabát,
người ta thường mời khách về nhà dùng bữa trưa.
Bữa ăn này đã được chuẩn bị từ ngày hôm trước.
Hôm nay Đức Giêsu lại được một người Pharisêu mời dùng bữa.
Đây là lần thứ ba Ngài được mời ăn như thế (x. Lc 7, 36; 11, 37).
Và đây cũng là lần thứ ba có sự căng thẳng
vì Ngài chữa bệnh trong ngày sabát (x. Lc 6, 6; 13, 10).
Những người Pharisêu trong bữa ăn hôm nay chăm chú nhìn Ngài (c. 1).

Chúng ta không rõ người mắc bệnh phù thũng có là khách không.
Hay phải chăng anh ấy là người không mời mà đến?
Nếu là khách thì tại sao Đức Giêsu lại cho anh về sau khi chữa khỏi?
Dù sao thì anh ấy cũng đang đứng trước mặt Đức Giêsu (c. 2).
Ngài thấy những dấu hiệu của bệnh phù thũng nơi thân xác anh.
Trên người anh có chỗ sưng lên vì nước bị ứ lại.
Chính Đức Giêsu là người chủ động đặt vấn đề với người Pharisêu.
“Có được phép chữa bệnh trong ngày sabát không ?” (c. 3).
Hiển nhiên đối với họ, chỉ được phép chữa những bệnh nhân hấp hối.
Anh bị phù thũng không nằm trong diện này.
Vậy mà họ đã giữ thái độ thinh lặng trước câu hỏi đó (c. 4).

Đức Giêsu đã chữa bệnh cho anh chỉ bằng một cử chỉ đỡ lấy.
Không có lời nói nào kèm theo.
Có lẽ anh đã đi về nhà, lòng vui sướng vì được khỏi bệnh.
Đức Giêsu đã muốn biện minh cho hành vi chữa bệnh trong ngày sabát
bằng một câu hỏi về cách ứng xử trong một trường hợp cụ thể (c. 5).
“Giả như các ông có đứa con trai hoặc con bò sa xuống giếng,
các ông lại không kéo nó lên ngay lập tức, dù là ngày sabát sao?”
Họ đã không thể đưa ra câu trả lời,
vì dĩ nhiên là phải kéo nó lên ngay, trước khi nó chết dưới giếng.
Đối với Đức Giêsu, chữa bệnh đơn giản là kéo một người lên ngay.
Dù Ngài không phủ nhận tầm quan trọng của việc giữ ngày sabát,
nhưng ngày sabát lại không cấm làm điều phải làm, đó là chữa bệnh.

Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến nhu cầu của con người.
Nếu để đến hôm sau mới chữa cho anh phù thũng thì cũng được.
Nếu để bà còng lưng mười tám năm chịu thêm một ngày cũng không sao.
Nhưng Ngài muốn giải phóng con người ngay lập tức, khi có thể được.
Ngài muốn làm vơi nỗi đau kéo dài đã lâu của con người.
Chính vì bà còng lưng đã mười tám năm đau khổ
nên không cần kéo dài thêm, dù chỉ một ngày nữa.
Luật lệ đạo đời nhằm phục vụ cho hạnh phúc thực sự của con người.
Trong cuộc sống hôm nay, có nhiều việc cần làm ngay.
Có bao mảnh đời sắp bị đổ vỡ, có những nguy cơ đe dọa nhân phẩm,
có những người trẻ đứng trên bờ vực, có những thai nhi bị chối từ.
Làm sao chúng ta không dửng dưng với những em nhỏ ở kề miệng giếng,
và không quay lưng với những người đã sa xuống vực sâu?

Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

3 THÁNG MƯỜI MỘT

Hoa Trái Của Hiệp Nhất

Trong lời nguyện hiến tế của Người tại bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói: “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để họ cũng được thánh hiến trong sự thật” (Ga 17,19). Mối hiệp nhất được xây dựng trên sự thật, trên sự thật của Lời mạc khải, trên sự thật của chính Lời của Cha là Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.

Sự thật của Lời này được trao ban cho Giáo Hội trong Đức Kitô và qua các Tông Đồ là những vị đã được sai đi để làm Phép Rửa và giảng dạy nhân danh Người: “Như Cha đã sai con đến trong thế gian, con cũng sai họ đi vào thế gian” (Ga 17,18). Sự hiệp nhất của chúng ta không chỉ nhằm cho chúng ta, nhưng đúng hơn cho toàn thế giới, để thế giới có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Con của Ngài để cứu độ chúng ta (Ga 17,21.23).

Hiệp nhất là nguồn vui và nguồn an bình của chúng ta. Đàng khác, chia rẽ và bất hòa, nhất là thù hận, thì hoàn toàn đối nghịch lại hiệp nhất. Đó là sự dữ, và đầu mối của chúng là chính Satan.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 03-11

Thánh Martinô Porres, tu sĩ

Rm 9, 1-5; Lc 14, 1-6.

Lời suy niệm: “Một ngày Sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, họ cố dò xét Người. Và kìa, trước mặt Đức Giêsu, có một người mắc bệnh phù thủng. Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pharisêu: “Có được phép chữa bệnh ngày Sabát hay không?”

          Trong đoạn Phúc Âm này cho chúng ta thấy, đây là một cuộc sắp đặt của những người thông luật và người Pharisêu cũng như chủ nhà là một thủ lãnh, khi họ đã cài sẵn một bệnh nhân trong ngày Sabát trước mặt Chúa Giêsu, họ muốn dò xét Chúa Giêsu. Người biết tâm địa của họ, Người đặt câu hỏi, nhưng rồi chính Người đã chữa lành cho người phù thủng trong ngày Sabát. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát, mà Người đã chữa nhiều lần rồi; như Chúa chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô (Lc 4,38) chữa cho người bị bại tay (Lc 6,6) chữa cho người đàn bà bị còng lưng mười tám năm (Lc 13,14) người mù từ lúc mới sinh (Ga 9,14)…

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho tất cả chúng con đừng bao giờ sống thách đố làm nhục nhau, nhưng cho chúng con luôn biết sống yêu thương chân thành với một tình huynh đệ có cùng một Cha chung trên trời. Để tất cả được hạnh phúc và bình an trong Chúa. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 03-11: Thánh MARTINÔ PORRES

Tu Sĩ (1579 – 1639)

1579 là niên biểu ghi nhớ ngày sinh ra của Martinô ở Lima, Pêru con của một người mẹ da đen và của một người cha hiệp sĩ và 1639 là niên biểu ghi nhớ ngày qua đời của thánh nhân. Sáu mươi năm giữa hai niên biểu này là khoảng thời gian Martinô tiến tới miền ánh sáng, trong sự khiêm tốn và hiến mình trọn vẹn để phục vụ các bệnh nhân.

Cuộc tình của cha mẹ Ngài không suông sẻ lắm, vì màu da của mẹ Ngài đã đưa đến những hất hủi không những cho bà mẹ mà còn cho cả những đứa con xấu số của bà nữa. Nhưng hoàn cảnh đen tối ấy, Martinô lại coi như nén bạc trao tay để Ngài sinh lời, thành bông hoa khiêm tốn tuyệt vời.

Hồi còn là một thiếu niên, Martinô đã chứng tỏ lòng bác ái đầy khiêm tốn phục vụ của mình. Hôm ấy khi theo chị mang thức ăn cho gia đình, Ngài nghe thấy tiếng rên rỉ của một bà lão người da đỏ. Dừng lại Ngài kinh hãi khi thấy một người lính Tây Ban Nha đang hành hạ lão. Đầy thương cảm, cậu thiếu niên Martinô cúi xuống lão già người da đỏ. Nhưng ông thù ghét cự tuyệt: Thằng nô lệ… mày đen đủi. Bọn da đen tụi mày là kẻ thù của dân da đỏ.

Nhưng người thiếu niên da đen này đã không bỏ cậu đi. Cậu nói chuyện với lão già da đỏ cách dịu dàng đến nỗi lão đã thú nhận là ba ngày rồi không ăn thứ gì vào bụng lại chẳng có con cháu gì cả. Martinô đã khóc và đưa tất cả thực phẩm cả ngày đã mua được cho lão già.

Vào thời đó, chỉ cần học một chút nghề cạo gió, cắt lể như Martinô đã học thì đã được coi là đủ để chữa nhiều loại bệnh, như Martinô đã săn sóc các bệnh nhân. Và các con bệnh có thể là loài người hay loài vật, bởi vì mọi loài đau khổ đều có quyền được người bạn da đen này khiêm tốn tận tình săn sóc. Ngài đã chữa lành một con gà tây gẫy giò. Người ta còn nói rằng: Ngài đã làm cho nhiều con vật sống lại.

Vào tuổi 15, Ngài nhập dòng Daminh như một thày dòng ba. Thày thích làm những việc khiêm tốn đến độ đã được biệt danh là “thày chổi”. Tại nhà dòng Đức bà Mân Côi, Ngài vẫn tiếp tục nghề thuốc của mình với một đức ái nhẫn nại vô bờ, như là một y tá của nhà dòng. Ngài kín múc sức mạnh trong kinh nguyện và khổ hạnh, vừa dấu mình làm việc và lần hạt Mân côi, thức đêm để cầu nguyện rồi ngủ trên cái cáng dùng khiêng xác chết.

Trong dòng Ngài cũng vẫn tiếp tục lấy tình yêu để đáp lại những bất công. Một bệnh nhân giận dữ với Martinô, nhưng Ngài đã êm ái nói với họ: – Anh giận dữ phải lẽ lắm, nhưng cơn giận có thể gia tăng cơn bệnh của anh. Hãy dùng món ăn anh thích này đi và tôi thoa bóp chân cho anh.

Ngài không hề bất nhân, nhưng lại càng lo lắng săn sóc nhiều hơn cho những người tỏ ra độc ác bất công như Ngài.

Martinô đã từ chối không lãnh chức linh mục để có thể tiếp tục làm đày tớ mọi người. Để thưởng lòng trong trắng, đức bác ái và sự khiêm tốn, Thiên Chúa đã ban cho Ngài ơn chữa bệnh, nói tiên tri và làm nhiều phép lạ. Ngài qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1639.

Cuộc điều tra phong thánh cho Ngài đã sớm khởi sự từ năm 1657, nhưng mãi 200 năm sau, năm 1837, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI mới phong Ngài lên hàng chân phước và 100 năm sau nữa, ngày 6 tháng 5 năm 1962, Đức giáo hoàng Gioan XXIII phong Ngài lên bậc hiển thánh. Hương thơm thánh thiện của Ngài quả là không thể tan loãng theo thời gian.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

03 Tháng Mười Một

Con Chỉ Là Một Tên Mọi Ðen

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Martinô Porres.

Nhắc đến thánh nhân, người ta thường liên tưởng đến những ơn lạ lùng như xuất thần ngất trí trong khi cầu nguyện, như hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, hoặc như có thể trò chuyện và điều khiển cả thú vật.

Vị thánh có lòng bác ái cao độ này lại xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát và đắng cay. Là con của một thiếu nữ da đen đã từng bị đem bán làm nô lệ vào một nhà quý tộc người Tây Ban Nha, Martinô đã được vị linh mục Rửa Tội ghi trong sổ bộ của giáo xứ là “con không cha”. Quả thật, con không cha như nhà không nóc. Martinô đa lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình cha mãi cho đến năm 8 tuổi. Nhưng sau khi được chính thức thừa nhận không bao lâu, thì người cha lại bỏ rơi gia đình. Một lần nữa, cậu bé Martinô lại rơi vào cảnh khốn khổ như đa số các em bé nghèo của thành phố Lima, Pêru vào giữa thế kỷ thứ 16.

Nhưng cảnh nghèo ấy đã không gieo vào lòng cậu bé mang hai dòng máu này chút đắng cay nào. Trái lại, cậu tiếp nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống như một thách đố, như một ân sủng. 

Năm 12 tuổi, Martinô đã được học nghề hớt tóc và đôi chút xảo thuật của ngành giải phẫu. Vừa hành nghề như một người thợ hớt tóc, vừa như một y tá, Martinô đã đem hết sự hăng say và tận tụy của mình để phục vụ những người nghèo đồng cảnh ngộ.

Nhưng nhận thấy chỉ có thể sống trọn Ðức Ái trong một tu viện, Martinô đã đến gõ cửa một nhà dòng Ðaminh để xin được làm trợ sĩ trong nhà. Bí quyết nên thánh của thầy Martinô là sám hối cầu nguyện và phục vụ, nhất là phục vụ trong những công việc vô danh nhất. Lần kia, nhà dòng mang nợ đến độ không thể bảo đảm được các nhu cầu của các tu sĩ, thầy Martinô đã đến thưa với Bề trên như sau: “Thưa cha, con chỉ là tên mọi đen. Xin hãy bán con đi”. 

Sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, thầy Martinô cũng luôn nhận tất cả phần lỗi về mình. 

Ôn lại gương hy sinh, cầu nguyện và bác ái của thánh Martinô, không những chúng ta chỉ chạy đến xin ngài bầu cử trong những lúc gặp gian nan thử thách, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là lòng tin thác vào Chúa quan phòng của thánh nhân mà chúng ta cần học hỏi, nhất là trong giai đoạn gặp khó khăn này. 

Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ðó phải là niềm xác tín của chúng ta. Một Thiên Chúa quan phòng là Ðấng có thể biến tất cả những đắng cay, buồn phiền, thất bại, khổ đau trong cuộc sống con người thành khởi đầu của một nguồn ơn cao quí hơn. Cũng như loài ong chỉ rút mật ngọt từ bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, cũng thế, người có niềm tin luôn có thể rút tỉa được những sức đẩy mới từ những thất bại rủi ro trong cuộc sống. Thánh Martinô đã không hận đời đen bạc vì bị người cha bỏ rơi, mà trái lại xem đó như một dịp may để cảm thông, để học hỏi và để phục vụ người khác hữu hiệu hơn. “Hạt lúa rơi xuống đất có mục nát đi mới trổ sinh được nhiều bông hạt”. Ðó là định luật của cuộc sống. Thập giá trong cuộc sống thường là khởi đầu và cơ may cho một vươn lên cao hơn. 

Chúng ta thường chạy đến khẩn cầu với thánh Martinô trong cơn hoạn nạn thử thách, chúng ta cũng hãy noi gương ngài để phó thác cho Tình Yêu quan phòng của Chúa, và nhất là xin Ngài cũng giúp chúng ta luôn biết lấy Tình Thương để thắng vượt những ngược đãi của người đời, cũng luôn biết sẵn sàng phục vụ và phục vụ bằng chính mạng sống của mình.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Lễ Thánh Martin De Porres – Ngày 3 tháng 11 

Bài đọc: Isa 58:6-11; Mt 11:25-30

1/ Hoàn cảnh cuộc đời thơ ấu của thánh Martin.

Dưới mắt người đời, hoàn cảnh của Martin thật là sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, hay dưới một bầu trời tối đen như mầu da của ngài vậy: Ngài là đứa con của hai giòng máu: Cha là Don Juan, một sĩ quan da trắng, thuộc giòng họ quí tộc của Tây-ban-nha, qua Lima, Peru để cai trị dân bản xứ. Mẹ là một thiếu nữ trẻ, Anna Velasquez, người địa phương da đen, nghèo khổ. Hậu quả của cuộc tình vội vã trong thời chiến tranh đã cho chào đời Martin và người chị gái của ngài. Khi nhận ra mẹ con Martin là một trở ngại và tai tiếng cho mình trên đường công danh sự nghiệp, ông đã bỏ mẹ con Martin ở lại Peru để về nước. Thiếu vắng tình thương và sự giáo dục của người cha, Martin đã mất đi một nửa cuộc đời.

Đứng trước hoàn cảnh éo le của mẹ góa con côi, bà Anna quyết định không than thân trách phận và dành trọn vẹn tình thương cho hai con: ban ngày Bà làm việc vất vả, ban đêm về thay chồng dạy dỗ cho hai anh em Martin thành người. Có thể nói tình mẹ là một trong những nguồn thắp sáng cuộc đời Martin.

Sống trong một hoàn cảnh cay đắng như thế, nhiều người thấy mình có lý do để trách Trời, hận người, hận đời, và lao vào cuộc sống trác táng, hoang đàng, tù tội. Nhưng tại sao những điều này không xảy ra cho Martin?

2/ Thiên Chúa đã ban cho Martin 3 viên ngọc quí:

Martin có thể ví như lời của một bài ca sinh hoạt của Thiếu Nhi Thánh Thể: “Con kiến đen nằm trên hòn đá đen, mặt trời tối đen Đức Chúa Trời cũng thấy.” Ngài thấy tất cả vì Ngài là ánh sáng và không có gì có thể ẩn giấu trước mắt Ngài. Martin cũng là con của Ngài như tất cả những người con khác. Là Người Cha giàu lòng thương xót, đứa con nào càng khốn khổ bệnh tật bao nhiêu, Ngài càng thương xót và ban nhiều hồng ân bấy nhiêu. Ngài đã bí mật gieo vào tâm hồn Martin 3 viên ngọc quí, và chính ba viên ngọc quí này đã thay đổi toàn bộ cuộc đời Martin.

2.1/ Viên ngọc đức tin: Nhìn các tượng ảnh của thánh Martin, chúng ta nhận thấy một hình ảnh nổi bật là luôn luôn có Cây Thập Giá, khi thì Ngài cầm trên tay, khi thì Ngài áp vào ngực. Chúng ta có thể nói Martin cố gắng diễn tả đời mình theo mẫu gương của Đức Kitô đã để lại. Thánh Phaolô xác tín: Nếu như Thiên Chúa Cha đã sẵn sàng hy sinh cho chúng ta ngay cả Người Con Một, còn gì có thể ban mà Ngài không ban tặng tất cả cho chúng ta? (Rom 8:32).

Martin tuy mồ côi cha dưới đất; nhưng Ngài không bao giờ mồ côi Cha trên trời, vì Martin tin lời hứa của Thiên Chúa: ”Cho dù cha hay mẹ có thể bỏ tôi, nhưng vẫn còn Thiên Chúa cứu vớt tôi” (Psa 27:10). Martin không cảm thấy đời hoang vắng vì ngài tin Thiên Chúa luôn phù hộ, che chở, và yêu thương mình. Khi con người có Thiên Chúa, họ có tất cả vì Thiên Chúa có mọi sự. Chúng ta có thể nói niềm tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa là động lực chủ yếu giúp Martin vững bước vượt qua mọi trở ngại trong cuộc đời.

2.2/ Viên ngọc đức cậy hay niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau: Thiên Chúa cho Martin sớm nhận thấy cuộc đời chỉ là chốn dung thân tạm thời, và căn nhà vĩnh cửu Ngài đã dọn sẵn cho Martin là chỗ ở hạnh phúc trên Thiên Đàng.

Con người có hai niềm hy vọng: hoặc họ đặt hy vọng vào những gì của đời này hoặc họ đặt niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Nếu đặt hy vọng vào vinh quang đời này, con người sẽ tìm mọi cách để vơ vét của cải, danh vọng, chức quyền, và tìm mọi cách để hưởng thụ những thú vui mà thế gian dâng tặng. Nếu đặt hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau, con người sẽ không phí thời gian và sức lực cho những điều chóng hư nát; nhưng sẽ nỗ lực tìm kiếm và tích trữ cho mình những giá trị vĩnh cửu trên trời.

Cuộc đời của thánh Martin dẫn chứng niềm hy vọng sáng ngời vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Martin không bao giờ muốn giữ cho mình dù chỉ một chút danh vọng, chức quyền, hay của cải. Ngài luôn coi trọng tha nhân, để cho người khác phần tốt nhất; vì Martin biết khi làm như thế, ngài đang sắm cho mình của cải trên Trời.

2.3/ Viên ngọc đức mến: Thiên Chúa đã làm cho Martin cảm nhận được tình yêu của Ngài. Chính điều này đã giúp nghị lực cho Martin vượt qua mọi khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.

2.3.1/ Đức mến của Martin với Thiên Chúa: Martin nhận ra rất sớm tình phụ tử Thiên Chúa dành cho ngài để đền bù sự thiệt hại của cảnh mồ côi cha. Martin cũng học được ngay từ đầu đời tình thương của Đức Kitô dưới chân Thánh Giá. Ngài đã yêu thương nhân loại đến nỗi sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và hy sinh tính mạng vì con người. Noi gương Đức Kitô chịu đóng đinh, Martin cũng muốn dang tay ôm trọn mọi nỗi khổ của nhân loại vào cho mình.

2.3.2/ Đức mến của Martin với tha nhân: Tình yêu của Martin dành cho Thiên Chúa biểu lộ qua tình yêu của Martin dành cho người nghèo, cho anh em trong Dòng, và ngay cả cho những thú vật ngoài đồng.

(1) Với người nghèo: Martin có lẽ ý thức rất rõ về những lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng Matthew, chương 25: khi một người làm gì cho những người bé mọn đau khổ nhất, người đó làm cho chính Chúa. Martin có thói quen mang bệnh nhân hôi hám ngoài đường về phòng, cho nằm trên giường của mình để săn sóc; còn mình nằm dười sàn nhà. Đi đâu Martin cũng mang theo những vật dụng hay đồ ăn để cho người nghèo; ngay cả lấy vào tiền chợ mẹ trao để giúp đỡ người nghèo.

(2) Với anh em trong Dòng: Có hai biến cố nổi bật khi Martin xin vào tu-viện Rất Thánh Mân Côi của Dòng Đa-minh mới thành lập tại Lima, Peru

+ Martin coi tất cả mọi anh em xứng đáng hơn mình: Khi xin vào Dòng lúc 15 tuổi, Martin chỉ xin được làm công việc của một người giúp việc như: quét nhà, canh cổng, giặt quần áo, lo bếp núc, và thuốc thang cho anh em khi bệnh tật. Cả hàng trăm công việc không tên, và những lời than phiền luôn chờ đợi để rót vào tai Martin khi sơ ý hay không đáp ứng đủ những đòi hỏi của anh em. Sau một thời gian giúp việc, khi Bề-trên nhấn mạnh Martin phải lãnh áo dòng của trợ sĩ, Martin mới chính thức thành thầy trợ sĩ nghèo hèn.

+ Martin tình nguyện xin cha Bề-trên bán mình như bán người nô lệ để anh em trong Tu-viện có tiền sinh sống. Martin đã học gương này nơi Đức Kitô, vì tuy Ngài là phận Thiên Chúa; nhưng đã không giữ cho mình chức phận ấy; nhưng đã hủy mình ra không bằng cách mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời đến bằng lòng chết chịu chết, và chết trên cây Thập Tự (Phi 2:6-7). Đức Kitô chấp nhận hủy mình ra không (kenosis) vì Ngài yêu thương Chúa Cha và yêu thương con người. Ngài biết Thiên Chúa yêu thương con người dường nào, và Ngài sẵn sàng hy sinh để Chúa Cha và con người được ở bên nhau. Martin cũng yêu thương Thiên Chúa và yêu thương anh chị em trong Dòng như thế, Martin nghĩ mình có thể hy sinh làm nô lệ để anh chị em có cơ hội rao giảng mang con người về cho Thiên Chúa. Ngài vẫn đang bán mình để nuôi anh chị em trong Dòng … Khi được nuôi rồi, anh chị em chúng ta có đáp ứng nguyện vọng của Martin để chinh phục con người về cho Thiên Chúa, hay lại sống theo phù hoa của thế gian!

(3) Với thú vật: Câu chuyện kỳ thú trong cuộc đời của Martin là cuộc đối thoại của ngài với gia đình nhà chuột. Con người có thể thích chó hay thích mèo vì chúng dễ thương, sạch sẽ, biết nghe lời, và thân thiện. Có thể có người thích yêu chuột kiểng (hamsters), những con chuột lông trắng hay mầu; nhưng yêu những con chuột nhắt trong nhà hay chuột cống thì hầu như không có một ai trừ thánh Martin. Chúng đã đen đủi, xấu xí, và hôi hám thì chớ; lại còn hay cắn quần áo, bàn ghế, và những đồ dùng trong nhà. Chuột có lẽ là một trong những loài vật khốn khổ nhất, vì không những chịu sự ghét bỏ của con người, mà ngay cả chó mèo cũng luôn tìm cách giết chết chúng. Có lẽ số phận của chuột một cách nào đó cũng giống như thân phận của Đức Kitô và Martin. Đức Kitô bỏ cõi trời hạ mình xuống sống với con người; nhưng vẫn bị con người tìm cách loại trừ và giết chết. Martin cũng là thân phận con người, nhưng bị cha từ bỏ và người đời kỳ thị. Có lẽ vì những lý do này mà Martin có tình thương đặc biệt cho gia đình nhà chuột chăng? Chúng là lý do mà anh em tố cáo Martin với Bề-trên Tu-viện; vì Martin đã cho chúng đồ ăn trong nhà.

Đứng trước áp lực của anh em, Martin chỉ có hai con đường: hoặc không cho chúng ăn nữa để chúng phải chết đói, hay cho chúng ăn những thuốc giết chuột để chúng phải chết; hoặc cãi lời Bề-trên và làm hại anh em bằng cách cứ tiếp tục cho chúng ăn. Cả hai cách Martin đều không thể làm được vì vi phạm đến lòng thương thú vật. Martin cầu nguyện và Thiên Chúa soi sáng để có cách thứ ba. Martin cho gọi đại diện gia đình nhà chuột tới và thương lượng: Nếu muốn được ngài tiếp tục nuôi dưỡng, toàn bộ gia đình nhà chuột phải dọn ra chuồng bò sau nhà dòng. Nếu cứ tiếp tục cắn phá quần áo của Tu-viện, ngài sẽ không cho ăn nữa. Hậu quả xảy ra: vì gia đình chuột muốn sống, nên chúng đã vâng lời Martin dọn ra chuồng bò ở; và từ đó Martin không nghe lời than phiền của anh em trong Dòng nữa.

Khi một người có sự liên hệ đúng đắn với Thiên Chúa, với tha nhân, và với các tạo vật, người ấy có thể hiểu và truyền thông tiếng nói của các tạo vật ấy. Chúng ta thấy điều này cũng xảy ra với thánh Phanxicô Khó Khăn và thánh Antôn Padua.

3/ Cuộc đời của Thánh Martin dạy chúng ta những bài học quí giá.

(1) Thiên Chúa quan tâm đến mọi người: Ngài không chỉ ban cho Martin 3 viên ngọc quí, Ngài ban 3 viên ngọc quí này cho tất cả mọi người chúng ta trong ngày lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội. Điều quan trọng là chúng ta có biết nhìn ra và làm cho ba viên ngọc sinh ích lợi cho cuộc đời mỗi người chúng ta hay không.

(2) Thầy dạy của chúng ta phải là Đức Kitô: Martin đã họa cuộc đời của mình theo gương mẫu của Đức Kitô chịu đóng đinh. Thánh Thomas Aquinô xác tín: không đâu dạy con người nhiều cho bằng dưới chân cây Thập Giá. Chúng ta đã học được gì nơi Thập Giá của Đức Kitô?

(3) Hoàn cảnh nào cũng có thể nên thánh cả. Chúng ta hãy biết sống an vui trong hoàn cảnh hiện tại Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào. Đừng đứng núi này trông núi kia để rồi trách Trời, trách người, hay than thân trách phận. Thiên Chúa không đòi chúng ta phải cố gắng quá sức mình, Ngài chỉ mong chúng ta an vui với số phận và chu toàn những gì trong khả năng mình có thể làm được với ơn thánh Ngài ban.

(4) Hãy biết sống Đức Bác Ái cách tuyệt hảo: Con đường thơ ấu của chị thánh Têrêsa Hài Đồng cũng như con đường yêu thương của thánh Martin, không chủ trương phải làm việc lớn hay việc quan trọng. Các ngài chỉ chú trọng làm việc nhỏ với tình yêu nồng nàn.

(5) Nhìn lại cuộc đời của thánh Martin, chúng ta nhận ra sự yêu thương săn sóc tuyệt vời của Thiên Chúa: Ngài đã ban 3 viên ngọc quí cho Martin. Ngài cho Martin cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa. Ngài ban ơn thánh để Martin biết chạy đến với Đức Kitô và học hỏi nơi Ngài. Ngài ban sức mạnh Thánh Thần để Martin hiểu và biết thi hành những gì đã học. Sau cùng, Ngài đổ muôn vàn phép lạ xuống qua sự bầu cử của thánh Martin. Nếu Thiên Chúa không ban phép lạ qua tay Martin, Martin sẽ mãi mãi là một chàng da đen khốn khổ nghèo hèn không ai biết tới.

Nhiều người thắc mắc: Làm sao một ông thánh da đen, sống tận Nam Mỹ, chưa bao giờ đặt chân đến Việt-nam, lại trở thành phổ thông với con dân Việt-nam, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, hay lênh đênh trên biển cả? Có lẽ câu trả lời đúng nhất là vì Martin ”đã đau mắt nên biết thương người mù.” Đức Kitô cũng như Martin đã trải qua mọi đau khổ của kiếp người, nên dễ biết thông cảm với hoàn cảnh của những người cùng chung số phận.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************