Ngày thứ sáu (04-08-2023) – Trang suy niệm

03/08/2023

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu đầu tháng. Thánh Gioan Maria Vianê

BÀI ĐỌC I: Lv 23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37

“Các ngươi phải kể những ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh”

Bài trích sách Lêvi

Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ðây là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải mừng lễ trong thời gian của nó. Chiều ngày mười bốn tháng Giêng là Lễ Vượt Qua của Chúa; và ngày mười lăm tháng Giêng, là lễ trọng không men của Chúa: Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Ngày thứ nhất, các ngươi phải kể là ngày rất trọng thể, và là ngày thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy”. Trong bảy ngày, các người phải thiêu hy lễ dâng lên Chúa. Ngày thứ bảy là ngày trọng thể và là ngày thánh hơn, các ngươi không làm việc xác nào trong ngày ấy”. Chúa lại phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy nói cùng con cái Israel và bảo họ rằng: Khi các ngươi đã tiến vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi, và khi các ngươi gặt lúa, thì phải mang bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ giơ bó lúa lên trước mặt Chúa để hôm sau ngày sabbat, người xin Chúa chấp nhận cho các ngươi, và thánh hoá nó. Vậy các ngươi hãy tính từ hôm sau ngày sabbat, là ngày các ngươi đã dâng bó lúa đầu mùa, các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm sau cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày, thì các ngươi phải dâng của lễ mới cho Chúa. Ngày mùng mười tháng Bảy, là ngày đền tội rất trọng thể, gọi là ngày thánh: trong ngày đó, các ngươi phải hãm dẹp tâm hồn, và dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa. Từ ngày mười lăm tháng Bảy sẽ mừng lễ Nhà Xếp kính Chúa trong bảy ngày. Ngày thứ nhất sẽ gọi là ngày rất trọng thể và rất thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. Và trong bảy ngày, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, ngày thứ tám cũng rất trọng thể và rất thánh, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, vì là ngày cộng đoàn tập họp, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. “Ðó là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải kể là những ngày rất trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy, các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo nghi lễ của mỗi ngày”.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 80, 3-4. 5-6ab. 10-11ab

Đáp: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Đấng phù trợ chúng ta (c. 2a).

1) Hãy hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền. Hãy rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ của chúng ta. (2) Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên đường lìa xa Ai-cập. (3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập.

ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a

All. All. – Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. – All.

PHÚC ÂM: Mt 13, 54-58

“Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: “Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?” Và họ vấp phạm đến Người. Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: “Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình”. Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

04/08/2023 – THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 17 TN

Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục

Mt 13,54-58

XOÁ THÀNH KIẾN ĐỂ VỮNG TIN

Chúa Giê-su nói: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.” Người không làm nhiều phép lạ tại đó vì họ không tin. (Mt 13,57-58)

Suy niệm: Chúa Giê-su không làm nhiều phép lạ tại quê hương mình chỉ vì dân làng thiếu niềm tin vào Chúa. Và lý do khiến họ không tin là vì ‘quen quá hóa nhàm,’ họ biết rõ xuất thân của Ngài là con bà Ma-ri-a và bác thợ mộc Giu-se, là những người tầm thường ở giữa họ từ bấy lâu nay. Cái nhìn coi thường ấy lại bị thiên lệch thêm vì thói ghen ăn tức ở. Người tầm thường như thế làm sao lại có thể khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ đến vậy? Vì những thành kiến đó, họ đã không tin vào Chúa Giê-su; vì họ không tin, nên phép lạ đã không diễn ra. Thật vậy, có xoá bỏ thành kiến mới có niềm tin; và chỉ nhờ vững tin, con người mới có thể đón nhận phép lạ từ nơi Chúa.

Mời Bạn: Chúa Giê-su mời gọi bạn thể hiện niềm tin cách sống động qua những ơn Ngài ban cho bạn hay qua những người bạn gặp gỡ tiếp xúc, dù họ rất tầm thường. Khi không để những thành kiến che mờ con mắt, bạn sẽ nhạy bén nhận ra ơn Chúa và những điều tốt đẹp nơi mình cũng như nơi tha nhân. Nhờ lòng tin, bạn sẽ để Chúa tự do làm nhiều phép lạ trong cuộc sống của bạn.

Chia sẻ: Làm thế nào bạn có thể loại bỏ thành kiến để đón nhận dấu lạ của Chúa nơi chính mình và nơi tha nhân?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày bạn chủ ý tìm ra một ưu điểm, một thiện ý nơi những người mà, theo tính tự nhiên, bạn cảm thấy ‘khó ưa’ nhất.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp chúng con xoá bỏ thành kiến nơi mình để có thể nhìn ra điều tốt đẹp Chúa làm nơi tha nhân, và nhờ đó chúng con thêm lòng tin vào Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nadarét dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nadarét như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.

Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nadarét, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nadarét, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.

Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế ? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.

Tiếc thay, dân làng Nadarét lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ ?
Làm sao từ ngôi làng Nadarét vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được ?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu… ?

Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nadarét đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

4 THÁNG TÁM

Chúng Ta Không Đau Khổ Một Mình

Đối với câu hỏi bằng cách nào hòa giải sự dữ và đau khổ trên trần đời với chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta không thể đưa ra một câu trả lời đầy đủ mà không qui chiếu đến Đức Kitô. Một đàng, qua cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Người – và nhất là qua cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người – Đức Kitô xác nhận rằng Thiên Chúa có mặt với mọi người trong đau khổ của họ.

Hơn th ế nữa, Đức Kitô đã đảm nhận nơi chính Người tất cả những đau khổ của cuộc hiện sinh con người trên trái đất này. Đồng thời, Đức Giê-su Kitô mạc khải rằng đau khổ ấy có một giá trị và năng lực cứu độ. Trong đau khổ ấy có sự chuẩn bị của “một gia tài không thể hư hại, tàn phai” mà Thánh Phêrô đề cập đến trong Thư thứ nhất của ngài: “một gia tài được giữ trên trời cho anh em” (1Pr 1,4).

Như vậy, chân lý về sự quan phòng đạt được ý nghĩa cánh chung cuối cùng của nó xuyên qua “sức mạnh và sự khôn ngoan” của Thập Giá Đức Kitô. Câu trả lời đầy đủ cho vấn đề sự dữ và đau khổ được cung ứng bởi mạc khải của Thiên Chúa qua sự tiền định nơi Đức Kitô. Vì sự tiền định này cho ta thấy rằng ơn gọi của con người là đạt đến sự sống vĩnh cửu – tức tham dự vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Và đây là câu trả lời chính xác mà Đức Kitô đã đem lại cho chúng ta. Người đã xác nhận câu trả lời này qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 04/8

Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục

Lv 23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37; Mt 13, 54-58.

Lời Suy niệm: Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?”

            Tuổi thơ ấu của Chúa, Chúa đã gắn bó với quê hương, Chúa gần gũi với tất cả mọi người, điều này đã được người dân quê của Chúa xác nhận: “Ông không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là Bà Maria; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-mon và Giu-đa sao?” Và khi Người đã khôn lớn đi giảng dạy khắp nơi, và làm nhiều phép lạ. Giờ đây Người trở lại quê nhà. Người vẫn giữ thói quen là vào hội đường và Người đã giảng dạy. Lời Chúa hôm nay cũng đang đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta về cách sống của mình tại chính quê hương của mình?

            Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn biết quan tâm và sống gắn kết đời mình với Giáo xứ, nơi mà chúng con đã được khôn lớn lên, bằng các Bí Tích và sự quan tâm của bà con trong giáo xứ cũng như với lối xóm. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 04-08

Thánh GIOAN MARIA VIANEY

Linh Mục (1786 – 1859)

Gioan Maria Vianney sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786 tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức tin.

Năm lên 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798 Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799 Gioan cùng với 15 em khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Mân côi kỷ niệm ngày hạnh phúc này.

Năm 1800 thanh bình trở lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ Gioan đã muốn làm linh mục. Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, họ Ecully. Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau Ngài may mắn được trở về nhà.

Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục. Không thất vọng một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.

Sau khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : – “Đây là một họ đạo nhỏ bé nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ”.

Ngày 9 tháng 2 năm 1818 cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.

Nhà xứ Ars thật nghèo nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ họ đạo lại coi đời sống cầu nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm, nhiều lần với nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện : – Lạy Chúa, con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con… Con bằng lòng chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.

Chìm đắm trong kinh nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác, mà Ngài coi như cái thây ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng, Ngài đem cho người nghèo… Vui cười Ngài nói: – Tôi không hề mất áo choàng bao giờ. Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu một nồi khoai rồi treo lên tường.

Khi đói Ngài ăn một hai củ và củ thứ ba là “để cho vui miệng”. Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827, khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.

Hơn nữa thánh nhân còn tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài còn loang lổ nhiều vết máu.

Với một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức, thói quen làm việc xác ngày Chúa nhật và tật ham khiêu vũ.

Để chấn hưng lại tình trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm mình. Trong hoạt động Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng, Đêm thứ bảy cha học và tập giảng – cho hôm sau lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người nghe.

Chẳng hạn Ngài nói: – Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi… danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.

– Càng cầu nguyện người ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.

Các câu chuyện nhỏ cha kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị đau bịnh :- Con đau đớn lắm không ?
Cậu bé trả lời “Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ”.
Cha hỏi lại : – Vậy con muốn được lành bệnh không ?
– Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.

Chống lại tật làm việc xác, cha nói: – Ngày chủ nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc ngày Chúa nhật và lấy của kẻ khác.

Để chống lại tật ham khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu nữ vào việc thực hành đạo đức này.

Hơn nữa, trong họ có bảy quán rượu cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều đóng cửa.

Thấy trọng trách của một chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi tòa giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la lối om sòm, hiện hình kỳ quái… đến độ đốt cháy cả giường nằm.

Nhớ lại tất cả những gì đã trải qua, cha nói:
– Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.

Nhưng ơn thánh Chúa đã nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha Gioan đã làm vui lòng mọi người.

Suốt hai mươi năm trời, cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau này khi được qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở Ars.

Tận tụy với các linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói : “Con chó của ông thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào”. Cúi mặt người du khách vào toà xưng tội.

Một người đàn bà khác nghe cha nói: “Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội…”. Thế là cha đã biết nỗi lo âu sầu của bà, vì cái chết mới đây của chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: nhờ những bó hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã được cứu rỗi.

Đời sống của cha Gioan là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: “Hạnh phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn”.

Quả thực, cha Gioan đã hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859 cha chịu các phép bí tích sau hết. Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện.
– Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.

Ngày tháng 5 năm 1925, cha Gioan được tôn phong hiển thánh và năm 1925 được đặt làm bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

04 Tháng Tám

Sức mạnh Của Thiên Chúa

Ðược biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh mẽ”.

Năm 1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.

Sau ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.

Ngày nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: “Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng”.

Thực ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.

Ý thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.

Ðể thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.

Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.

Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với Thiên Chúa.

Cha Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là “Giờ của Thiên Chúa”. Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu – Tuần 17 – TN1 – Năm lẻ.

Bài đọc: Lv 23:1, 4-11, 15-16, 27, 34b-37; Mt 13:54-58.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải sống những gì mình cử hành.

Kitô Giáo không phải chỉ là niềm tin vào Thiên Chúa, được cử hành qua những nghi thức trong thánh đường; nhưng niềm tin này phải được biểu lộ trong đời sống của các Kitô hữu, như có một tác giả đã diễn tả “cuộc đời ta là Thánh Lễ nối dài.” Các nghi thức giúp chúng ta thấu hiểu những mầu nhiệm của Thiên Chúa qua các biến cố lịch sử; để rồi chúng ta biết sống những mầu nhiệm đó trong đời sống hằng ngày. Chỉ như thế, tôn giáo mới mang lại lợi ích cho con người.

Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng nhu cầu cần thấu hiểu những gì con người cử hành trước khi sống niềm tin đó. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Levi trình bày ý nghĩa và những gì cần làm trong 4 ngày đại lễ của người Do-thái để thờ phượng Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trở về quê để rao giảng và làm ích cho những người đồng hương; nhưng họ đã vấp phạm vì Ngài ngay trong hội đường.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Bốn đại lễ của Đức Chúa và những điều dân chúng phải làm.

Đức Chúa phán với ông Moses rằng: Đây là các đại lễ của Đức Chúa, các cuộc họp để thờ phượng mà các ngươi phải triệu tập vào thời gian ấn định:

1.1/ Lễ Vượt Qua (Passover) và Lễ Bánh Không Men (Unleaven Bread):

(1) Ý nghĩa: Hai ngày lễ này gần nhau vì cùng chung một biến cố lịch sử để kỷ niệm ngày con cái Israel được Thiên Chúa giải thoát khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập.

+ Lễ Vượt Qua (Pasch): “Tháng thứ nhất, ngày mười bốn trong tháng, vào lúc chập tối, là Lễ Vượt Qua kính Đức Chúa.” Các thiên thần “vượt qua” những nhà có máu chiên bôi trên cửa, và con cái Israel “vượt qua” Biển Đỏ ráo chân; trong khi quân đội của Pharao bị nhận chìm trong biển.

+ Lễ Bánh Không Men (massôt): “Ngày mười lăm tháng ấy là Lễ Bánh Không Men kính Đức Chúa. Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ăn bánh không men.”

(2) Những việc cần làm:

– Ngày đầu tiên, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. Mục đích là để nhớ lại tình thương, uy quyền, và cảm tạ Thiên Chúa.

– Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên Đức Chúa. Ngày thứ bảy, có cuộc họp để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.
– Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt mùa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi. Mục đích là để tạ ơn Thiên Chúa đã đưa dân vào Đất Hứa và chúc lành cho mùa màng đầu năm của họ.

– Nó sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan Đức Chúa để các ngươi được đoái nhận; tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng hôm sau ngày Sabbath.

1.2/ Lễ Năm Mươi (Pentecost): còn được gọi là Lễ Tuần (Weeks)

(1) Ý nghĩa: Bảy tuần chẵn hay 50 ngày sau khi chấm dứt Lễ Bánh Không Men: “Từ hôm sau ngày Sabbath, các ngươi phải tính bảy tuần, bảy tuần chẵn. Các ngươi phải tính năm mươi ngày cho đến hôm sau ngày Sabbath, và các ngươi sẽ tiến dâng một lễ phẩm mới lên Đức Chúa.” Truyền thống mừng lễ này để kỷ niệm biến cố Thiên Chúa ban cho con cái Israel Thập Giới qua ông Moses trên núi Sinai, 50 ngày sau biến cố vượt qua Biển Đỏ.

(2) Việc phải làm: Các ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng. Các chi tiết khác được mô tả rõ ràng trong (Lev 23:15-21).

1.3/ Ngày Xá Tội (Day of Atonement):

(1) Ý nghĩa: “Ngày mồng mười tháng bảy là Ngày Xá Tội.” Mục đích là để xin Thiên Chúa tha thứ các tội mà con cái Israel đã xúc phạm tới Ngài và với nhau.

(2) Việc cần làm: Các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, phải ăn chay hãm mình và tiến dâng một lễ hoả tế lên Đức Chúa. Chi tiết về lễ này, xin đọc Sách Levi, chương 16.

1.4/ Lễ Lều (sukkôt): còn được gọi là Booth, Tent, hay Tabernacle.

(1) Ý nghĩa: Ngày mười lăm tháng bảy là Lễ Lều kính Đức Chúa, trong vòng bảy ngày. Mục đích là để cám ơn Thiên Chúa đã cho mùa màng thứ hai được kết quả tốt đẹp (nho và ôliu). Truyền thống sau này kỷ niệm việc con cái Israel sống trong lều khi lang thang suốt 40 năm trong sa mạc.

(2) Việc phải làm:

+ Ngày đầu tiên, phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.

+ Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên Đức Chúa. Ngày thứ tám, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên Đức Chúa: đó là một buổi họp long trọng, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. Chi tiết về lễ này, xin xem (Num 29:12-38).

2/ Phúc Âm: Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.

2.1/ Người đồng hương Nazareth không tin vào Chúa: Để giúp người đồng hương có cơ hội tin vào Ngài, Chúa Giêsu về quê và vào trong hội đường của họ để giảng dạy dân chúng.

(1) Họ nhận ra lập tức sự khôn ngoan và uy quyền của Chúa: Họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?” Nếu cứ tìm hiểu lý do, họ có thể tiến tới chỗ tin Ngài là Con Thiên Chúa.

(2) Phán đoán sai lầm: Nhưng họ để cho tính kiêu căng và ích kỷ chi phối phán đoán của họ: “Ông ta không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria; anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Joseph, Simon và Judah sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? Và họ vấp ngã vì Người.”

Họ vấp ngã vì đã phán đoán không đúng đối tượng: thay vì phán đoán các dữ kiện Chúa nói và làm, họ lại phán đoán gia cảnh, họ hàng, và các môn đệ của Ngài! Họ nghĩ, một gia đình thợ mộc tầm thường không thể có con khôn ngoan và uy quyền như thế, vì “con sãi chùa phải quét lá đa!”

2.2/ Bụt nhà không thiêng: Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.” Quá quen đưa đến khinh thường hay “gần chùa gọi bụt bằng anh.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta không thể tách rời những gì chúng ta cử hành trong thánh đường với đời sống của chúng ta ngoài thánh đường. Để sinh lợi ích, chúng ta phải đem ra áp dụng trong cuộc đời những gì chúng ta đã cử hành trong thánh đường.

– Chúng ta không thể chỉ là người công giáo ngày Chúa Nhật trong thánh đường và sống như những người vô thần khi ra khỏi nơi thánh đó. Làm như thế, chúng ta chỉ là những kẻ giả hình và thờ Thiên Chúa bằng môi miệng, còn lòng chúng ta thì xa Chúa vạn dặm. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************