Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Sáu Mùa Giáng Sinh Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: 1 Ga 5, 5-6. 8-13 (Hl 5-13)
“Thánh Thần, nước và máu”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Đấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Đức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa. Có Thánh Thần làm chứng rằng Chúa Kitô là chân lý. Và trên mặt đất có ba nhân chứng: Thánh Thần, nước và máu, cả ba chỉ là một. Nếu chứng của người đời mà chúng ta còn nhận lấy, thì chứng của Thiên Chúa còn mạnh hơn. Vì đó là chứng của Thiên Chúa, chứng mạnh hơn là Người đã làm chứng về Con Mình.
Ai tin kính Con Thiên Chúa, thì có chứng của Thiên Chúa nơi mình. Còn ai không tin Thiên Chúa, thì cho Người là gian dối, vì kẻ ấy không tin nơi chứng mà Thiên Chúa đã làm chứng về Con Mình. Và chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống đó ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con, thì có sự sống; còn ai không có Chúa Con, thì cũng không có sự sống. Ta viết các điều này cho các con, để các con biết rằng các con là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, các con có sự sống đời đời. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20
Đáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! Vì Người đã giữ chặt các then cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. – Đáp.
2) Người sắp đặt bờ cõi ngươi trong thanh bình, cho ngươi hưởng no nê những tinh hoa lúa miến. Người đã sai Lời Người xuống cõi trần ai, và Lời Người lanh chai chạy rảo. – Đáp.
3) Người đã loan truyền Lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế; Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Tm 3,36
Alleluia, alleluia. – Lạy Chúa Kitô, Đấng được rao giảng cho lương dân, vinh danh Chúa! Lạy Chúa Kitô, Đấng được tin kính ở thế gian, vinh danh Chúa! – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 5, 12-16
“Lập tức người ấy khỏi phong hủi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Xảy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch”. Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: “Ta muốn, hãy nên trơn sạch”. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: “Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch”. Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
10/01/2020 – THỨ SÁU SAU LỄ HIỂN LINH
Lc 5,12-16
KHI ĐỨC KI-TÔ MUỐN
Có một người đầy phong hủi vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh. (Lc 5,12-13)
Suy niệm: Một bàn tay giơ lên và một lời nói được thốt ra: “Tôi muốn, anh hãy sạch đi”, ngay lập tức hiệu quả được thực hiện. Không phải là bàn tay và lời nói của bất cứ ai mà phải là của Đức Ki-tô. Chúa Giê-su đã lập các bí tích như thế đó. Nơi các Bí Tích, ý muốn cứu độ của Đức Ki-tô được thành sự thông qua việc thực hiện những lời nói và những cử chỉ, không phải là của bất cứ ai, mà là của những người đã được Đức Ki-tô uỷ thác, đó là các tông đồ, và nối tiếp, là những người được các tông đồ uỷ thác. Truyền thống tông đồ ấy vẫn tiếp nối trong Giáo Hội cho đến ngày hôm nay, nơi các giám mục và linh mục. Thế nhưng vẫn còn một điều không thể thiếu, đó là đức tin nơi người lãnh nhận mà đại diện là niềm tin nơi người phong hủi: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Mời Bạn: Sở dĩ người ta coi các bí tích như những thứ bùa chú, hoặc như một việc làm theo hình thức, là bởi vì họ đã không nhận ra được sự hiện diện thiêng liêng của Đức Ki-tô nơi đó. Điều đáng ngạc nhiên và đáng buồn là chính chúng ta, những người ki-tô hữu, cử hành các bí tích lắm khi cũng đã hồ nghi hoặc lãnh đạm như vậy.
Chia sẻ: Làm thế nào để việc học hỏi giáo lý về các bí tích được hữu hiệu hơn?
Sống Lời Chúa: Thành khẩn xin Chúa ban thêm đức tin mỗi khi lãnh nhận bí tích.
Cầu nguyện: Đọc kinh Tin (Lạy Chúa, con tin thật…)
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG GIÊNG
Aùnh Sáng Cho Các Dân Tộc
Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta hình ảnh Đức Giê-su Na-da-rét như là “người tôi tớ của Thiên Chúa” đã được báo trước trong Sách Ngôn sứ Isaia, như là người được Thiên Chúa tuyển chọn và hài lòng. Trong tư cách là người tôi tớ của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chu toàn sứ mạng của Người với sự dấn thân trọn vẹn cho Thánh Ý Thiên Chúa; và Người nêu mẫu gương khiêm nhường trong quan hệ với mọi người. Như vậy, Thiên Chúa đã đặt Người “như một giao ước với con người”, “như một ánh sáng cho các dân tộc”, để đem lại ánh sáng cho người mù và trả lại tự do cho các tù nhân.
Người tôi tớ kỳ diệu ấy của Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng đã đến để đem ơn cứu độ cho nhân loại – như được mạc khải trong nước của phép Rửa. Trong Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu được Gio-an làm phép Rửa. Bấy giờ trời mở ra, và Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Đức Kitô trong hình một chim bồ câu. Rồi tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta; Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17).
Giờ đây sấm ngôn xưa đã được ứng nghiệm. Thiên Chúa vui thỏa đối với tôi tớ của Ngài; Cha hài lòng về Con đời đời của mình. Bởi người Con ấy đã đảm nhận bản tính nhân loại. Với lòng khiêm nhường sâu thẳm, Người đã xin Gio-an làm phép rửa cho Người trong nước. Tuy nhiên, Gio-an Tẩy Giả chỉ là một vị tiền hô của Đức Kitô, và phép rửa của Gio-an trong nước chỉ là một chuẩn bị cho cuộc xuất hiện của Đấng Mêsia – một chuẩn bị để đón nhận ân sủng. Đức Giêsu, người tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, mới là người mang ân sủng đến và làm phép Rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 10/1
1Ga 5,5-13; Lc 5, 12-16.
Lời Suy Niệm: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn; Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.”
Đối với Chúa Giêsu, Người có quyền năng, Người giàu lòng thương xót và Người luôn sẵn lòng ban phát mọi ơn lành để cứu vớt, chữa lành cho cả phần hồn lẫn phần xác của con người.
Lạy Chúa Giêsu. Trong đời sống của chúng con, luôn có những dấu của chứng bệnh phung hủi trong tâm hồn cũng như trên thân xác. Xin cho chúng con có được đức tin, tin vào “Lòng Chúa thương xót” và quyền năng chữa lành cứu vớt của Chúa, để chúng con luôn chạy đến với lời cầu xin: “Xin Chúa cứu chữa con,”
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
10 Tháng Giêng
Hạt Giống Của Hy Vọng
Văn hào Shakespeare của nước Anh đã nói rằng: liều thuốc duy nhất còn lại cho những người khốn khổ chính là niềm Hy Vọng. Bao lâu còn hy vọng, bấy lâu con người muốn tiếp tục sống.
Những người Mỹ tại một thành phố nọ thường truyền tụng cho nhau nghe câu chuyện nuôi niềm hy vọng của một gia đình nọ như sau: Có một đôi vợ chồng nọ vừa yêu người cũng lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con ruột thịt ra, họ còn nhận thêm năm đứa con nuôi. Niềm vui chung của mọi người trong nhà là được săn sóc vườn hoa và những thứ cây cảnh trong nhà. Người vợ tưởng chừng như không biết thế nào là đau khổ. Nhưng cả bầu trời như sụp xuống, vườn hoa trở thành hoang tàn, khi người chồng ngộ nạn, qua đời. Kể từ đó, người đàn bà không còn muốn ra khỏi nhà nữa. Thiếu bàn tay săn sóc của bà, ngôi vườn cũng mỗi lúc một tàn lụi.
Mùa đông đến càng làm cho ngày tháng càng thêm ảm đạm hơn. Thế nhưng, một bữa sáng nọ, người đàn bà bỗng nghe tiếng cười nói và cào xới trong ngôi vườn. Kéo tấm màn cửa sổ phòng ngủ lên, bà thấy các con của bà đang hì hục xới đất. Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả trong gia đình chỉ mỉm cười đáp: “Má sẽ biết khi mùa xuân đến”. Và nguyên một mùa đông, ngày nào các con của bà cũng ra vườn để xới đất.
Thế rồi khi mùa xuân đến, bao nhiêu hoa đẹp đều nở rộ trong vườn. Những hạt giống mà những người con đã âm thầm gieo vãi trong mùa đông nay thức giấc bừng dậy làm cho ngôi vườn trở thành tươi mát, sặc sỡ.
Cùng với hạt giống của các thứ hoa, những người con đã gieo vào lòng người mẹ một thứ hạt giống khác: đó là hạt giống của Hy Vọng. Chính niềm hy vọng đó đã đem người đàn bà trở lại cuộc sống và đánh tan mọi buồn phiền trong tâm hồn bà.
Câu chuyện trên đây có lẽ cũng chính là bức tranh của không biết bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Có những ngày tháng, mọi sự xem chừng như vô vọng. Có những lúc mây mù của khổ đau bao phủ kín khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Chính trong những lúc đó, chúng ta hãy nhớ đến hạt giống của niềm Hy Vọng. Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi cho các tín hữu Rôma như sau: “Chính trong niềm Hy Vọng mà chúng ta được cứu thoát. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng hãy nhìn thấy Sức Sống đang chờ đợi chúng ta. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng ta hãy nhìn thấy những hoa trái của những hạt giống mà chúng ta đã vất vả gieo vãi.
Một người Hòa Lan và một người Mỹ bàn về ý nghĩa của hai lá cờ quốc gia. Người hòa Lan phát biểu một cách mỉa mai như sau: lá cờ của chúng tôi có ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi tức giận đỏ cả người lên, mỗi khi chúng tôi bàn đến thuế má. Chúng tôi run sợ đến trắng bệch cả người mỗi khi chúng tôi nhận được giấy thuế má. Và chúng tôi xanh như tàu lá sau khi đã trả hết các thứ thuế. Người Mỹ cũng nói lên một cảm tưởng tương tự mỗi khi nhận được các thứ giấy đòi nợ, nhưng lại bảo rằng: bù lại, chúng tôi chỉ thấy toàn các thứ sao.
Sao trên bầu trời là biểu hiện của chính niềm Hy Vọng. Bên kia những vất vả thử thách, bên kia những mất mát, bên kia những thất bại khổ đau, phải chăng người Kitô chúng ta không được mời gọi để thấy được các ngôi sao của niềm Hy Vọng.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 10 tháng 1 GS
Bài đọc: 1 Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin vào Đức Kitô giải thoát con người khỏi mọi tội và cho con người được sống muôn đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
Binh pháp Tôn Tử dạy “Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng”, có nghĩa, “Biết ta biết người trăm trận trăm thắng.” Trong trận chiến thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cần biết mình là con người yếu đuối, giới hạn và không biết hết sự thật; trong khi Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và có quyền năng vô hạn. Ngài biết tất cả sự thật và không có gì là không thể đối với Ngài.
Hai bài đọc hôm nay minh chứng chân lý này. Trong Bài đọc I, tác giả Thư thứ nhất Gioan xác nhận cả hai sự sống: thể lý và đời đời không phải do chúng ta có được; nhưng do bởi Thiên Chúa. Ngài dựng nên chúng ta và cho chúng ta chung hưởng cuộc sống đời đời nếu chúng ta đặt trọn vẹn tin tưởng vào Ngài. Để hiểu biết những chân lý này, chúng ta cần học hỏi để biết Thiên Chúa và Đức Kitô là ai. Trong Phúc Âm, một anh phong hủi biết mình không thể tự mình chữa lành; nhưng biết Chúa Giêsu là người có thể chữa anh khỏi bệnh nên anh đã đến xấp mình trước mặt Chúa Giêsu và van xin Ngài: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giêsu đã chữa lành anh vì nhận ra sự khiêm nhường và lòng tin tưởng vững mạnh của anh.
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là sự sống và là sự sống đời đời của chúng ta.
1.1/ Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.
(1) Phải tin vào Con Thiên Chúa để có sự sống: Niềm tin vào Đức Kitô là điều kiện duy nhất được đòi hỏi để một người được sống theo Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Jn 20:30-31) và Thư thứ nhất Gioan: “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.” (I Jn 5:11b-12)
(2) Ai tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa sẽ nhận được sự sống đời đời: Trong tiếng Hy-lạp, có nhiều danh từ dùng để chỉ sự sống như psyche (sự sống thể lý) hay aionios (sự sống đời đời). Cả hai tác giả của Tin mừng Gioan và Thư thứ nhất Gioan đều dùng danh từ aionios để chỉ sự sống đời đời. Các tác giả không muốn nói sự sống thể lý của con người sẽ kéo dài đến muôn đời; nhưng muốn nói tới sự sống đời đời mà chúng ta sẽ có ở nơi Thiên Chúa, một sự sống hoàn hảo, bình an và hạnh phúc, không còn khổ đau, ly tán hay bệnh tật.
1.2/ Có nhiều hơn hai nhân chứng đã làm chứng cho Đức Kitô là Thiên Chúa và là người thật.
Luật chỉ đòi hai nhân chứng để biết đó là chứng thật. Trong trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta có nhiều hơn hai nhân chứng xác nhận Đức Kitô là Thiên Chúa thật để chúng ta có thể tin vững vàng vào Ngài.
(1) Ba nhân chứng tác giả nêu ra hôm nay:
- Thần Khí hay Thánh Thần: Tại phép rửa của Đức Kitô làm bởi Gioan Tẩy Giả bên giòng sông Jordan. Khi Chúa Giêsu lên khỏi nước, Thánh Thần xuất hiện dưới dạng chim bồ câu và đậu lại trên Ngài (Mt 3:16, Lk 3:22, Mk1:10).
- Nước: Theo truyền thống, đây là phép rửa Gioan làm cho dân để tỏ lòng ăn năn thống hối, chứ không có quyền năng để tha tội. Nhưng phép rửa làm bởi Chúa Giêsu và Giáo Hội có sức để thanh tẩy hết mọi tội lỗi cho chúng ta.
- Máu: là biểu tượng lạ tác giả dùng ở đây để nhấn mạnh đến sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu. Như chúng ta đã nói từ đầu, những người theo chủ thuyết Ngộ Đạo, họ dễ dàng tin vào hai biểu tượng Thánh Thần và nước; nhưng từ chối Đức Kitô phải chịu đau khổ vì họ quan niệm Thiên Chúa chẳng dại gì để mang lấy một thân xác xấu xa và chịu đau khổ. Hơn nữa, Cerinthus, một người đồng thời với tác giả của Thư thứ nhất Gioan, đã đưa ra những cắt nghĩa kỳ quặc để từ chối những đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu. Chẳng hạn: tại phép rửa tại sông Jordan, Chúa Giêsu có thần tính của Đức Kitô nhập vào; nhưng sau đó thần tính lìa bỏ Chúa Giêsu về trời để chỉ còn lại người tên Jesus phải chịu thương khó và chịu chết. Giáo Hội dạy chúng ta hoàn toàn ngược lại: chính vì những đau khổ và máu Con Thiên Chúa đổ ra mà tất cả tội nhân loại được tha thứ và mang ơn cứu độ cho mọi người.
(2) Thiên Chúa đã làm chứng hai lần cho con của Ngài: Lần thứ nhất tại biến cố chịu phép rửa của Chúa Giêsu khi dân chúng nghe tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 3:17; Mk 1:11). Lần thứ hai tại biến cố biến hình của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ, tiếng Chúa Cha làm chứng: “Đây là Con Ta, Người Ta tuyển chọn, hãy nghe lời Người” (Lk 9:30, Mk 9:7, Mt 17:5). Lời chứng của Chúa Cha là lời chứng có thế giá và mạnh mẽ hơn cả.
(3) Ngoài ra, chúng ta còn có lời chứng của John Baptist, khi ông thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông chỉ vào Ngài và giới thiệu cho các môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Jn 1:29, 36). Hơn nữa, chính tác giả của Thư thứ nhất Gioan cũng làm chứng về Chúa Giêsu ngay trong câu mở đầu như sau: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.”
2/ Phúc Âm: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
2.1/ Niềm tin của người phong hủi:
(1) Anh tin Đức Kitô có quyền năng chữa anh khỏi bệnh phong hủi: Thông thường, trước khi làm phép lạ, Chúa Giêsu thường hỏi bệnh nhân: “Anh có tin là Ta có thể làm điều ấy cho anh không?” Trong trình thuật hôm nay, chúng ta không thấy câu hỏi của Chúa Giêsu, nhưng trong câu xin của anh phong hủi đã bày tỏ mạnh mẽ niềm tin của anh vào Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
(2) Việc anh phong hủi khiêm nhường biểu tỏ niềm tin bằng việc sấp mình trước mặt Chúa Giêsu chứng tỏ anh biết Chúa Giêsu là ai và anh là ai. Việc biết mình và biết người rất quan trọng để anh có thái độ cung kính trước Chúa Giêsu và để nhận lãnh việc chữa lành.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu:
Thời xưa, con người coi bệnh cùi là bệnh truyền nhiễm; vì thế bệnh nhân phải sống một nơi cô lập, xa hẳn những người lành mạnh; và không có thứ thuốc nào có thể chữa cho lành mạnh.
(1) Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh. Việc Chúa Giêsu giơ tay đụng đến anh chứng tỏ Chúa Giêsu không quan tâm đến việc lây bệnh; nhưng chỉ quan tâm đến sức khoẻ và cuộc sống của anh. Ngài sẵn sàng giơ tay đụng đến anh để anh được chữa lành.
(2) Sau đó, Người truyền cho anh làm 3 việc:
– Thứ nhất, Ngài truyền cho anh không được nói với ai. Điều này thường xảy ra trong Tin Mừng Marcô nhiều hơn trong Lucas, vì Marcô cố ý dùng cách này, “bí mật Đấng Thiên Sai” để muốn nhấn mạnh rằng không ai nhận ra Đấng Thiên Sai chịu đau khổ, chỉ có một người duy nhất tuyên xưng là viên quan đại đội trưởng khi chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Quả thật! Người này là Con Thiên Chúa” (Mk 15:39b).
– Thứ hai, Chúa Giêsu truyền cho anh: Hãy đi trình diện với các tư tế. Ngày xưa dân chúng không có các y sĩ như chúng ta có hiện giờ. Các tư tế là những người có bổn phận khám xét và kiểm chứng. Nếu bệnh nhân thực sự được lành sạch hẳn, họ sẽ viết một chứng thư cho anh tuyên bố anh đã được sạch.
– Hãy dâng lễ vật đền tội như Luật truyền để làm chứng cho người khác biết: Dâng lễ vật sau khi đã được thanh sạch khỏi bệnh hủi được mô tả cách rất chi tiết trong Sách Levi (x/c 14:1-32).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Biết mình và biết người rất cần thiết trong việc cư xử với nhau.
– Chúng ta cần học biết về Thiên Chúa qua Kinh Thánh để biết cách cư xử với Ngài khi cầu nguyện và xin ơn.
– Chúng ta cần đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Đức Kitô cho đến hơi thở cuối cùng để được hưởng cuộc sống đời đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************