Ngày thứ sáu (19-08-2022) – Trang suy niệm

18/08/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần XX Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I:    Ed 37, 1-14

“Hỡi các bộ xương khô, hãy nghe lời Chúa. Ta sẽ dẫn các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào nhà Israel”.

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, tay Chúa đặt trên tôi, và dẫn tôi đi trong thần trí của Chúa: Người để tôi giữa cánh đồng đầy hài cốt; Người đem tôi đi vòng quanh những hài cốt ấy, có rất nhiều bộ xương khô nằm la liệt trên cánh đồng. Và Chúa phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, ngươi nghĩ các xương này sẽ có thể được sống chăng?” Tôi thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã biết”. Người liền phán cùng tôi: “Ngươi hãy nói tiên tri về các bộ xương này, và bảo chúng rằng: ‘Hỡi các bộ xương khô, hãy nghe lời Chúa. Chúa là Thiên Chúa phán cùng các bộ xương như thế này: Đây Ta sẽ khiến hồn nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc ra trên các ngươi, và cho da bọc các ngươi: Ta sẽ ban hồn cho các ngươi, các ngươi sẽ được sống và biết rằng Ta là Chúa’ “. Tôi đã nói tiên tri như Chúa đã truyền cho tôi.

Đang lúc tôi nói tiên tri, thì có tiếng ồn ào, và tôi thấy chuyển động: các bộ xương họp lại với nhau, xương ăn khớp với nhau. Tôi quan sát, và này đây, gân và thịt mọc trên các bộ xương: có da bọc lại, nhưng chưa có hồn. Và Chúa phán cùng tôi rằng: “Ngươi hãy nói tiên tri về hồn, hỡi con người, hãy nói tiên tri và bảo hồn rằng: ‘Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Hỡi hồn, hãy từ bốn phương tiến đến’, và thổi hơi trên những kẻ bị giết này, để chúng sống lại”. Tôi đã nói tiên tri như Chúa đã truyền cho tôi. Hồn liền nhập vào chúng và chúng được sống. Chúng đứng thẳng lên làm thành một đạo quân cực kỳ đông đảo.

Và Chúa phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, các bộ xương này là toàn thể nhà Israel. Chúng nói rằng: ‘Xương chúng tôi đã khô đét, chúng tôi mất hết hy vọng, chúng tôi đã bị tiêu diệt’. Bởi đó, ngươi hãy nói tiên tri cho chúng rằng: ‘Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở các cửa mồ các ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và sẽ thi hành’ “. Đó là lời Chúa. 

ĐÁP CA: Tv 106, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Đáp: Hãy chúc tụng Chúa, vì đức từ bi Người còn muôn thuở (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng:

1) Hãy xướng lên, hỡi những người được Chúa thục mạng cho, những người Chúa đã thục mạng khỏi tay quân thù: những người Chúa đã họp lại từ muôn đất nước; từ đông sang tây và từ bắc chí nam. – Đáp.

2) Xưa họ lạc lõng trong chốn cô liêu hoang địa, không biết đường đi tới thành trì có thể định cư. Lúc bấy giờ họ đói khát, và sinh lực trong người họ hao mòn. – Đáp.

3) Họ kêu cầu cùng Chúa trong lúc khốn cùng, Người đã cứu họ thoát cảnh gian truân. Người dẫn họ đi trên con đường thẳng, để họ tới được thành trì có thể định cư. – Đáp.

4)Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta. Bởi Người đã cho người đói khát được no đủ, người cơ hàn được tràn trề thiện hảo. – Đáp.

ALLELUIA: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! – Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 22, 34-40

“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

19/08/2022 – THỨ SÁU TUẦN 20 TN

Th. Gio-an Ơ-đê, linh mục

Mt 22,34-40

YÊU NHƯ CHÚA YÊU

Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22,37-39)

Suy niệm: Một giám mục Việt Nam nói rằng có thể dùng từ “yêu mến” để giải thích tất cả giáo lý Công giáo. Bốn Phúc Âm, nói rộng hơn, cả bộ Tân Ước và thâm chí toàn bộ Kinh Thánh đều có thể tóm tắt trong một từ đó. Bài học duy nhất mà Đức Giê-su muốn dạy cho chúng ta, những học trò của Ngài tại trường Giê-su cũng là bài học yêu mến. Bí quyết làm nên cuộc đời Giê-su, một cuộc đời hiếu trung với Chúa Cha và phục vụ con người không mệt mỏi, cũng là yêu mến. Yêu mến theo Đức Giê-su không phải là thứ tình cảm bồng bột, nhưng là quyết định gắn bó với hoàn toàn với Chúa, để Ngài toàn quyền chi phối cuộc đời mình.

Mời Bạn: Ý thức yêu mến là điều quan trọng số một trong cuộc đời bạn. Muốn biết cuộc đời bạn thành công hay thất bại, bạn chỉ có một tiêu chuẩn để phân định, đó là bạn đã sống yêu mến chưa?

Chia sẻ: Tôi đã để Chúa có toàn quyền trên cuộc đời tôi chưa? Đó là dấu hiệu để nhận biết tôi có yêu Ngài hay không.

Sống Lời Chúa: Tôi tập sống yêu mến Chúa qua việc yêu mến anh em, mà cụ thể là quan tâm đến những nhu cầu của người lân cận.

Cầu nguyện: Lạy Chúa là mẫu mực tình yêu tinh ròng, xin cho chúng con biết yêu nhau như Chúa yêu chúng con để chúng con trở thành trái tim cho thế giới đang khô cằn vì thiếu tình yêu. Xin cho chúng con biết sống với tha nhân và cho tha nhân bằng cách quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Theo truyền thống hội đường Do-thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.

Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.

Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô : “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.

Lời nguyện

Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.

Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm anh bình nơi Chúa.
Thánh Âu Tinh

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

19 THÁNG TÁM

Tiến Tới Một Thế Giới Có Tính Người Hơn

Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh rất rõ ràng ý nghĩa đạo đức của sự phát triển và tiến bộ của con người trong thế giới này. Công Đồng cho thấy lý tưởng đạo đức của một thế giới có tính người hơn gắn chặt với giáo huấn của Tin Mừng như thế nào.

Trong khi phân biệt rõ ràng giữa sự phát triển của thế giới và lịch sử cứu độ, các Nghị Phụ Công Đồng khảo sát mối tương quan giữa hai lãnh vực ấy: “Tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền của Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn. Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: “Vương Quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an”. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến” (MV 39).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 19/8

Thánh Gioan Êuđê, linh mục

Ed 37, 1-14; Mt 22, 34-40.

LỜI SUY NIỆM: “Thưa Thầy, trong Sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”

          Đối với những người Pharisêu, họ sống và tuân giữ những điều trong Sách Luật Môsê một cách rất nghiêm nhặc; và họ chưa thấy được điều Luật quan trọng nhất; nên họ đã đến gặp Chúa Giêsu; và đặt câu hỏi với Người về điều Luật quan trọng nhất; Và đã được chính Chúa Giêsu giải thích cho họ: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.”

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn sống trọn ven điều Chúa dạy hôm nay, Hầu giúp chúng con trưởng thành trong đức tin và thể hiện được tình yêu thương nhau vì Kính Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 19-08: Thánh GIOAN EUDÊ

Linh Mục (1601 – 1680)

Thánh Gioan Euđê là một trong số những người chấn hưng tôn giáo tại Pháp thời vua Luy XVI. Isaac Euđê, cha Ngài là nhà nông kiêm nghề giải phẫu tại thành Ri gần Argentan, đã có ý định trở thành linh mục, nhưng rồi lại bỏ ý định để lập gia đình. Mẹ Ngài là bà Mattha Corbin tưởng sẽ phải son sẻ. Nhưng rồi sau nhờ cầu nguyện, họ sinh được Gioan với bốn em gái và hai em trai nữa.

Gioan có tính nóng nảy, nhưng hiến mình cho Đức Trinh Nữ Maria, Ngài quyết sửa mình bằng cách ngày càng mến Mẹ hơn. Hồi 9 tuổi, có lần Ngài bị một thằng bạn vả mặt, nhớ lời Chúa Ngài đưa má kia ra: còn má này nữa, nếu muốn anh cứ vả tiếp đi. Thằng bạn ngượng ngùng và sau này đã kể lại sự kiện đó với niềm thán phục sâu xa.

15 tuổi Gioan theo học các cha dòng Tên tại Caen. Từ trong huyết quản Gioan đoan hứa dâng mình cho mẹ Thiên Chúa. Nhưng khi trở về nhà, cha mẹ nói với Ngài về việc hôn nhân. Ngài bày tỏ ước vọng với cha mẹ và phải khó khăn lắm mới được cha mẹ ưng thuận. Ngài nhập dòng giảng thuyết và năm 1625 thụ phong linh mục.

Sau ngày thụ phong, Gioan phục vụ giáo xứ ở Aubervilliers. Hai năm sau, một cơn dịch xảy tới tàn phá giáo phận Sees. Các bệnh nhân bị những người khác bỏ mặc và trốn chạy. Gioan chỉ muốn bay tới để giúp đỡ họ. Trong suốt hai tháng trời, Ngài hết mình phục vụ. Khi cơn dịch hạ giảm, Ngài thực hiện sứ vụ tại Caen. Nhưng cơn dịch chưa dứt mà chỉ dời chỗ. Lần này cơn dịch tràn tới Caen. Gioan lại tận tâm quên mình phục vụ. Không có gì làm cho Ngài sợ hãi cả. Nhưng dân chúng lại sợ Ngài truyền bệnh. Bởi đó Ngài bị giam mình trong một cái thùng để ở ngoài đồng ruộng, khiến lúc đó cánh đồng được gọi là “cánh đồng của thánh nhân”. Các nữ tu thương hại Ngài ngày ngày mang của ăn đến cho Ngài. Ngài trở về dòng hiến mình phục vụ hai tu sĩ và bề trên sắp chết vì bệnh dịch. Cuối cùng, cơn dịch tan biến, nhưng Gioan lên cơn sốt, dân chúng khẩn cầu tha thiết cho Ngài được chữa lành và niềm vui thật lớn lao khi người “Samaritanô nhân hậu” tái xuất hiện.

Bây giờ bắt đầu công trình rao giảng và truyền giáo của Ngài. Ngài chống lại lạc thuyết Calvinô, những kinh hoàng của cuộc nội chiến, sự dốt nát của hàng giáo sĩ, những tật xấu của các tín hữu. Chúng ta có thể đo lường hoạt động của một vị thánh như thế nào: 15 ngàn người chen lấn nghe thánh nhân giảng, các tội nhân sám hối và để được xưng tội, họ phải chờ 4 hay 5 ngày mới đến lượt. Trong khi để tiết kiệm thì giờ của họ. Ngài chỉ dùng vài miếng bánh để dưỡng sức. Các thói tục ngoại giáo biến dạng. Ở Autun, cuộc rước Trinh nữ thay thế cho những gương mù ngày Mi-Careme (thứ 5 tuần III mùa chay). Ở Meaux dân chúng mang các sách đồi trụy đến công trường để đốt bỏ.

Cha Gioan Euđê đã giảng thuyết khắp vùng Normandie Bretagne, tới tận Saint Etienne. Tại Paris, cha sở thánh thiện của Saint – Sulpice, M.Olier, đã tổ chức cho Ngài 5 kỳ giảng thuyết. Ngài danh tiếng đến nỗi có 10 giám mục hiện diện. Ở Saint Germain-Laye, vua và hoàng hậu đến ngồi vào ghế thính giả. Cha Gioan Euđê thuyết giảng lần cuối cùng tại Sain-Lô.

Suốt 40 năm, cha Gioan đi rao giảng đó đây. Nhưng việc rao giảng chỉ là một phần hoạt động của Ngài. Nhận thấy hàng giáo sĩ không được đào tạo đầy đủ, Ngài từ giã dòng giảng thuyết năm 1643, để lập hội dòng Chúa Giêsu và Đức Maria lo việc tổ chức các chủng viện. Theo lời đề nghị của Đức Hồng Y Richelieu, Ngài lập đại chủng viện ở Caen rồi sau này ở Lisieux, Rouen, Eureux và Renner. Đàng khác Ngài rất thương cảm các thiếu nữ bất hạnh hoàn lương, năm 641 Ngài đã lập dòng Chúa chiên lành để săn sóc họ.

Giữa bao nhiêu công chuyện, ước mơ lớn nhất của thánh Gioan Eusê là phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm, Ngài là người khởi xướng, viết sách và các thánh thi ca tụng Thánh Tâm. Đây là nỗ lực chống lại chủ trương sai lầm của thuyết Giansêniô.

Ngày 19 tháng năm 1680, thánh Gioan Euđê từ trần, Ngài được phong chân phước năm 1925 được tôn phong hiển thánh.

******
Ngày 19-08: Thánh RÔMUALĐÔ

Tu Viện Trưởng (956 – 1027)

Thánh Rômualdô sinh tại Ravenna năm 956, trong một gia đình danh giá nước Ý. Bá tước Sergiô, cha Ngài đã phụng dưỡng Ngài trong một nếp sống xa hoa. Rômualdô đã chỉ tìm vui chơi mà không nghĩ gì tới bổn phận phải nên thánh. Dầu vậy đôi lần đi săn thú, Ngài thấy mình đơn độc giữa rừng vắng và phải suy nghĩ… Ngài đặt mình vào một ngày nào đó phải chết và bỗng thấy lo âu. Ngài cũng thấy rằng các ẩn sĩ chọn đời sống cô tịch, hãm mình để hiến thân phụng sự Chúa thật là đúng đắn. Những giấc mơ như vậy thanh luyện hồn Ngài và cảm kích bởi ơn thánh Ngài tự hứa với mình là sẽ cải thiện đời sống nhưng rồi trở lại với những thú vui ngày thường Ngài lại lùi bước trước nỗ lực và lao mình theo các thị hiếu.

Một biến cố đau thương đã thành phương tiện Thiên Chúa dùng để gỡ Rômualđô khỏi những ràng buộc với thế gian. Sergiô cha Ngài gây lộn với một người bà con về việc sở hữu một cánh đồng đã thách đấu kiếm, ông còn bắt con mình dự vào cuộc đấu. Sergiô giết chết đối thủ, coi mình là đồng lõa với tội phạm này và thấy phải đền trả. Rômuadô đã vào tu viện để thống hối suốt 40 ngày. Bị đánh động bởi thực tế trái ngược hẳn với lối sống phân tán của thế gian, Ngài chỉ còn nghĩ tới việc bắt chước những khắc khổ mà Ngài được chứng kiến.

Bá tước Sergiô cảm kích vì mẫu gương của con mình đã vào dòng. Khi bị cám dỗ trở về đường xưa, ông lại dẫn con mình kịp thời can thiệp và tiếp tục trung thành với đời sống đền bồi cầu nguyện.

Sau 7 năm sống trong dòng, Rômuado dấn mình vào sa mạc, sống gần vị ẩn sĩ già là Marinô. Đây là bậc thầy nghiêm ngặt mà Ngài đã chọn, Marinô thường lấy roi đánh trên đầu môn đệ của mình để xua đuổi sự chia trí lo ra hay để phạt một lầm lỗi khi đọc thánh vịnh, hay hơn nữa để giúp họ quen chịu khổ. Ông lại hay đánh có một phía. Rômuado không hề phàn nàn kêu trách.

Một ngày kia Ngài nói với thầy: – Thưa thày, từ nay xin thầy đánh về phía mặt vì tai trái con hầu như điếc rồi.

Rômuado thầm cảm phục và kính trọng môn đệ mình.

Rômuado nuôi chí hứơng canh tân dòng Bênêdictô đang thời sa sút, Ngài thiết lập một tu viện. Ngài làm cho các môn đệ nhiệt tình nên hoàn hảo trong việc hãm mình, khi phải chống lại sự dữ và phạt tội lỗi, thánh nhân đã tỏ ra cương nghị, chẳng hạn khi vua Othen III đến tu viện để đền bù tội lường gạt và sát hại một thủ lãnh loạn luân, ông được truyền dạy phải đi chân không tới nhà thờ thánh Micae và suốt mùa chay, phải ở trong đồng mà ăn chay, ngủ trên rơm cỏ.

Rômuado chống gậy rảo khắp nước Ý sang cả Pháp và Đức. Ngài xây nhiều nhà thờ, thiết lập nhiều tu viện, và các trung tâm ẩn tu trong sa mạc. Ngày kia, Ngài tìm được một nơi thanh vắng trong dãy Apennins. Ngài mơ thấy một cái thang bắc lên trời, có các tu sĩ lên xuống. Vị lãnh chúa miền này cho Ngài cánh đồng Malđôli. Thánh nhân lập dòng Camaldules sống đời liên lỉ.

Vào tuổi 120, thánh Rômuado từ trần, ngày 19 tháng 6 năm 1076.

Sau 439 năm xác Ngài còn nguyên vẹn và được đặt trong nhà thờ của dòng ở Fabrianô.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

19 Tháng Tám

Hãy Nhìn Lên Cao 

Dạo cuối tháng 4/1990, ở cao độ 620 cây số trên biển Thái Bình Dương, cánh tay dài 12 thước của người máy từ phi thuyền con thoi Discover đã đưa ống thiên văn Hubble rời xa phi thuyền để đi vào quỹ đạo không gian, bắt đầu một cuộc hành trình quan sát vũ trụ được dự trù kéo dài trong suốt 15 năm, mở đầu cho một kỷ nguyên mới trong ngành thiên văn học.

Do nhu cầu tìm hiểu vũ trụ, kính thiên văn đã được ra đời cách đây khoảng 380 năm. Nhờ kính thiên văn, các nhà thiên văn học mới có thể quan sát một cách chi tiết những thiên thể ở gần trái đất và từ đó đưa ra những định lý căn bản cho ngành thiên văn học. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học, đặc biệt là những máy điện toán, những kính thiên văn ngày càng được cải tiến về kỹ thuật cũng như kích thước để gia tăng khả năng quan sát. Hai kính thiên văn có đường kính lớn nhất hiện nay được đặt trên đỉnh núi Palomar và Caucasus. Nhưng dù được cải tiến cách mấy đi nữa, khoảng cách quan sát và mức độ phân giải của kính thiên văn đặt trên mặt đất vẫn còn bị giới hạn, vì ánh sáng từ các thiên thể trước khi đến mặt đất đã bị ngăn cản và tản xạ nhiều bởi lớp khí quyển bao quanh trái đất.

Ý tưởng về kính thiên văn đặt ngoài không gian đã được đề cập đến năm 1923, nhưng mãi đến năm 1981, ý tưởng này mới được thực hiện với một kinh phí khổng lồ là 1 tỷ rưỡi Mỹ kim. Kính thiên văn đặt ngoài không gian trái đất này mang tên khoa học gia Hoa Kỳ Edwin Hubble, một trong những tài năng lỗi lạc nhất trong ngành thiên văn học.

Sự ra đời của kính thiên văn Hubble có thể so sánh với sự ra đời của kính thiên văn đầu tiên của Galilêô vào năm 1609: đây là bước tiến quan trọng trong ngành thiên văn học, nó giúp con người tiến đến gần chân lý hơn trên con đường tìm hiểu vũ trụ.

Càng lên cao, con người mới nhìn xa thấy rộng. Càng ra khỏi mặt đất, càng lên cao trên không gian, nhãn giới của chúng ta càng mở rộng. Cũng giống như ống kính thiên văn Hubble, người Kitô hữu cũng được trang bị bằng cái nhìn từ trên cao. Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta nhìn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, chúng ta biết được đâu là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta. Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta có thể nhìn thấy dấu vết của một tình yêu luôn hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại và của từng người.

Khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn của Ngài, Phêrô kéo Ngài lại và can gián Ngài. Chúa Giêsu đã quở trách ông: “Hãy lui ra đằng sau ta hỡi Satan. Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, bởi vì cái nhìn của ngươi không phải là cái nhìn của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Lắm lúc chúng ta cũng khước từ cái nhìn trên cao của Thiên Chúa để chỉ nhìn vào cái biến cố bằng cái nhìn trần tục của chúng ta. Với cái nhìn trần tục, chúng ta chỉ thấy màu đen của thất bại, chết chóc, thất vọng, buồn thảm. Nhưng với cái nhìn của Chúa, sự yếu đuối sẽ trở thành sức mạnh, mất mát sẽ trở thành lợi lộc, khờ dại sẽ trở thành khôn ngoan. Trong cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy ánh sáng, hy vọng, tin tưởng, lạc quan.

Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Hãy yêu thích những sự trên trời”. Hãy mặc lấy cái nhìn từ trên cao. Hãy luôn sống và hành động bằng những tâm tình của chính Chúa Giêsu.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu – Tuần 20 – TN2 – Năm Chẵn

Bài đọc: Eze 37:1-14; Mt 22:34-40

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa, yêu người.

“Mến Chúa, yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất và là nền tảng của Đạo. Vì vi phạm hai giới răn này mà người Do-thái đã bị lưu đày xa quê hương; nhưng cũng chính vì hai giới răn này như thần khí đã giúp họ có cơ hội trở về dựng lại Đền Thờ và quê hương của họ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thị kiến những bộ xương khô.

Điều đầu tiên chúng ta cần nhấn mạnh: thị kiến này có ý nói tới ngày giải phóng của những người Do-thái khỏi cảnh nô lệ lưu đày, và được trở về để tái thiết lại Đền Thờ và quê hương. Sau này, nhiều nhà chú giải áp dụng thị kiến vào thời Cánh Chung khi Thiên Chúa sẽ làm cho tất cả các kẻ chết được sống lại trước khi phán xét họ.

Không điều gì là không thể đối với Đức Chúa: Sống trong cảnh lưu đày, người Do-thái hầu như ngã lòng trông cậy, mất hết tin tưởng ở tương lai. Họ nghĩ là sẽ không bao giờ có ngày hồi hương vì Thiên Chúa đã bỏ quên họ. Qua những gì tiên tri thấy được hôm nay, Thiên Chúa sẽ cho dân có ngày về. Những người Do-thái nơi lưu đày được ví như những bộ xương khô, đã chết cả về phần xác (khổ cực vì lưu đày) lẫn phần hồn (không còn hy vọng gì để sống). Khi Thiên Chúa hỏi tiên tri: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?” Tiên tri vững tin Thiên Chúa uy quyền làm chuyện đó nên ông thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó.”

Chúa muốn dùng con người làm những chuyện ấy nên Ngài nói với ông: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa.” Tôi đã tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm; có sự rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau. Tôi nhìn thì thấy trên chúng đã có gân; thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng.

Giống như biến cố Chúa dựng nên con người trong Sách Khởi Nguyên: sau khi Chúa lấy bùn đất tạo nên con người, Chúa thổi sinh khí và làm cho con người trở nên sinh vật sống động (Gen 2:7). Thị kiến Ezekiel nhìn thấy cũng vậy: tuy đã có thân thể nhưng vẫn chưa có thần khí nên chưa “sống” được. Người lại bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh.” Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.

Thiên Chúa cho tiên tri biết ý nghĩa của thị kiến: Các xương đó chính là toàn thể nhà Israel. Này chúng vẫn nói: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!” Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Judah và Israel thành một vương quốc thống nhất.

2/ Phúc Âm: Giới răn quan trọng nhất.

Pharisees là những người giữ cả luật thành văn và luật bất thành văn (truyền thống tổ tiên). Nhiều người trong họ là những người thông luật (scribes). Họ có rất nhiều luật, vì thế, họ có thể không biết đâu là điều răn quan trọng nhất. Phúc Âm Marcô 12:28-34 cũng tường thuật biến cố này, nhưng với giọng điệu thành thật vì muốn biết; trong khi Matthêu với giọng điệu để thử thách Chúa: Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sadducees phải câm miệng, thì những người Pharisees họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”

Câu trả lời của Chúa Giêsu, tuy chỉ vỏn vẹn trong ba hàng, nhưng Ngài nói đã tóm tắt tất cả Luật Moses và lời dạy của các sách Ngôn-sứ: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Moses và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”

Xem xét cẩn thận hai điều răn này, chúng ta nhận ra những điểm sau đây: (1) Cả hai điều răn đều dùng động từ yêu “ágapan.” Đây là cốt lõi của đạo, đạo của Thiên Chúa là đạo yêu thương: yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân. Động từ này được dùng cách riêng trong Tân Ước mà thôi. Phải yêu thương tha nhân bằng tình yêu của Thiên Chúa. (2) Ba điều đầu tiên của Thập Giới liên quan đến Thiên Chúa được Chúa Giêsu tóm gọn lại trong điều răn thứ nhất ở đây. Bảy điều sau của Thập Giới liên quan đến tha nhân cũng được Chúa Giêsu tóm gọn lại trong giới răn thứ hai “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (3) Trong Cựu Ước cũng đã có 2 điều răn này: Điều răn kính mến Chúa (Deut 6:5) còn được gọi là Shema, giới luật căn bản và quan trọng nhất của người Do-thái. Điều răn thứ hai (Lev 19:18) đòi yêu người như chính mình. Chúa Giêsu đã nhặt ra và tổng hợp lại thành hai điều răn quan trọng nhất của đạo.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Không có điều gì không thể đối với Thiên Chúa: Nếu Chúa đã phân tán người Do-thái làm nô lệ khắp nơi, Ngài cũng có thể tìm cách cho họ trở về. Nếu Chúa đã thổi sinh khí để dựng nên con người, Ngài cũng có thể thổi sinh khí làm con người sống lại.

– Không có điều gì là không thể đối với con người nếu chúng ta biết giữ cẩn thận ai điều răn quan trọng Chúa truyền hôm nay; vì những gì chúng ta không thể làm được, Chúa sẽ giúp chúng ta làm như Ngài đã giúp tiên tri Ezekiel hôm nay.

– Có quá nhiều luật lệ làm con người lẫn lộn: không phân biệt được đâu là điều chính đâu là điều phụ; không biết được điều gì quan trọng, điều gì không quan trọng. Câu trả lời của Chúa Giêsu hôm nay giúp chúng ta nhận thức rõ: “Mến Chúa, yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất và là nền tảng của Đạo. Khi có xung đột giữa các chọn lựa trong đời sống, hai giới răn quan trọng này sẽ giúp chúng ta biết lựa chọn làm sao cho đúng thứ tự ưu tiên của cuộc đời. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************