Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Sáu. Thánh Timôthê và Thánh Titô
BÀI ĐỌC I: 2 Tm 1, 1-8
“Nhớ lại đức tin trung thành của con”.
Bài trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthêu.
Phaolô, Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô, bởi ý định của Thiên Chúa, theo lời hứa ban sự sống trong Chúa Giêsu Kitô, gởi lời thăm Timôthêu, người con yêu dấu. Nguyện chúc ân sủng, lòng từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha, và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Cha cảm tạ ơn Chúa, Đấng cha phụng sự như tổ tiên cha, với tâm hồn trong trắng, khi cha đêm ngày hằng nhớ đến con trong kinh nguyện, nhớ đến nước mắt con đã chảy ra. Cha mong ước gặp con, để được đầy lòng vui mừng. Cha nhớ lại đức tin trung thành của con, đức tin mà bà ngoại của con là Lois đã có trước, rồi đến mẹ con là Êunikê, và cha tin chắc con cũng có đức tin đó. Vì vậy, cha nhắc nhở con điều này, là hãy làm sống động ơn Chúa trong con, ơn mà con lãnh nhận qua việc cha đặt tay trên con. Thật vậy, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mạnh, mến yêu và độ lượng. Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì cha là tù nhân của Người; nhưng hãy cộng tác với Tin Mừng dựa theo quyền lực của Thiên Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 7-8a. 10
Đáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa muôn dân (c. 3).
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3) Hãy kính tặng Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Chúa quyền thế với vinh quang; hãy kính tặng Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa.
4) Người giữ vững địa cầu cho khỏi lung lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.
ALLELUIA: Mt 23, 9a. 10b
All. All. – “Các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi chỉ có một người chỉ đạo, đó là Đức Kitô”. – All.
PHÚC ÂM: Lc 10, 1-9
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: “Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
Đó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
26/01/2024 – THỨ SÁU TUẦN 3 TN
Th. Ti-mô-thê và Ti-tô, giám mục
Lc 10,1-9
VƯƠNG QUỐC NƯỚC TRỜI
“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” (Lc 10,3)
Suy niệm: Khi truyền lệnh cho các môn đệ ra đi truyền giáo: “Anh em hãy ra đi,” Chúa Giê-su không che giấu vô vàn khó khăn, thách đố đang chờ các ông. Đứng trước khó khăn, thách đố ấy, các môn đệ như con chiên giữa sói rừng. Tựa con chiên luôn hiền hòa, người môn đệ cũng cư xử khoan dung, nhân hậu, thậm chí yêu thương cả thù địch, chứ không đòi trả đũa như Gia-cô-bê và Gio-an đối với người Sa-ma-ri (x. Lc 9,54). Đến với tha nhân, chúng ta phải mang lấy hình ảnh của Đức Giê-su: con chiên hiền lành bị đem đến lò sát sinh (x. Is 53,7). Tính cách dễ mến, dễ gần và vô hại của con chiên mới có thể thuyết phục, lôi cuốn người khác quan tâm đến những giá trị Nước Trời. Nhân loại hôm nay cần lắm những môn đệ mang mùi chiên, hơn là mùi sói, đón nhận bách hại mà không ‘kêu một tiếng’ như chính Thầy mình, Chiên Thiên Chúa xóa bỏ tội trần gian.
Mời Bạn: Tâm lý tự nhiên của con người là luôn muốn hơn người khác. Nhưng người môn đệ Đức Giê-su thì ngược lại, luôn để kẻ khác hơn mình. Họ sống theo những giá trị Nước Trời của Tin Mừng, chứ không theo thói đời. Bạn có can đảm sống những giá trị đó hay sợ bị ‘sói đời nuốt chửng,’ chùn bước trước mệnh lệnh “Anh em hãy ra đi”?
Chia sẻ: Mời bạn chia sẻ với nhóm những chống đối, cười chê, mệt nhọc… khi sống những đòi hỏi của Tin Mừng.
Sống Lời Chúa: Tâm niệm ‘ơn Ta luôn đủ cho con’ (2 Cr 12,9).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho mọi người Ki-tô hữu, để chúng con thực hành lệnh truyền ‘ra đi’, đem những giá trị Nước Trời đến cho anh chị em chúng con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Khi xa nhau, nhớ nhau, người ta thường viết thư cho nhau.
Ngày xưa phải mất nhiều thời gian một lá thư mới đến tay người nhận.
Nhưng nhận được lá thư từ xa thì thật là hạnh phúc.
Có lẽ thánh Phaolô đã viết thư này cho anh Timôthê
khi ngài đang ngồi tù tại Rôma, vào những năm cuối đời.
Ngài viết trong thư như sau: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế,
đã đến giờ tôi phải ra đi” (2 Tm 4, 6).
Ngài còn viết: “Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ,
tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2 Tm 2, 9).
Nếu đúng thế, thì lá thư này là một thứ di chúc để lại cho Timôthê,
người môn đệ, bạn đồng hành mà ngài gọi là người con yêu dấu (c. 2).
Đọc những câu đầu của lá thư,
chúng ta thấy tình cảm gắn bó của Phaolô đối với Timôthê,
người mà ngày đêm ngài luôn nhớ đến trong lời cầu nguyện (c. 3).
Phaolô cũng nhớ những giọt nước mắt lúc chia tay của Timôthê (c. 4),
lúc anh vâng lời ở lại Êphêsô, còn Phaolô tiếp tục hành trình (1 Tm 1, 3).
Phaolô vẫn không quên truyền thống đức tin nơi gia đình của anh.
Đức tin được thông chuyển đến Timôthê qua mẹ và bà ngoại.
Tên của hai phụ nữ này Phaolô còn giữ trong ký ức (c. 5).
Xem ra chưa phai mờ bao kỷ niệm thời Timôthê đi chung với Phaolô
trong những cuộc hành trình truyền giáo (Cv 16, 1-4; 19, 22).
Chia sẻ bao buồn vui, nhọc nhằn và nguy hiểm, trên đất liền và biển cả,
Phaolô và Timôthê trở thành những người bạn thân thiết cho sứ mạng.
Khi viết thư cho Timôthê trong vai trò một người giám quản,
phụ trách cộng đoàn Kitô hữu ở Êphêsô,
Phaolô muốn nâng đỡ Timôthê trong lúc anh đang gặp khó khăn.
Có vẻ anh muốn chùn bước trước những người dạy giáo lý sai lạc.
Phaolô đụng ngay vào tính nhút nhát của anh khi nhắc nhở:
“Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một tinh thần nhút nhát,
nhưng một tinh thần mạnh mẽ, yêu thương và tự chủ” (c. 7).
Timôthê cần vượt lên trên sự xấu hổ để làm chứng cho Chúa,
dám chia sẻ sự gian khó để loan báo Tin Mừng (c. 8).
Có một ngọn lửa nào cần khơi dậy nơi Timôthê.
Đối với Phaolô ngọn lửa ấy chính là đặc sủng của Thiên Chúa,
đặc sủng mà Timôthê nhận được khi Phaolô đặt tay trên anh (c. 6),
khi hàng kỳ mục ở Êphêsô đặt tay trên anh (1 Tm 4,14).
Timôthê đã được thụ phong rồi, ngọn lửa đã bừng sáng.
Không thể để khó khăn, nguy hiểm nào làm nó tắt được.
Mừng lễ hai thánh Timôthê và Titô, hai phụ tá của thánh Phaolô,
chúng ta cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo Hội trên thế giới.
Khi “dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa” (c. 8),
chúng ta sẽ ra khỏi sự nhút nhát và xấu hổ, sợ hãi và lo âu của mình,
để làm chứng cho Chúa trong một thế giới đầy rối ren và phức tạp.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái tim Chúa,
ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày,
nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau,
và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ
mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng
của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành
để hết lòng phụng sự Nước Chúa,
lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa
để chúng con đi khắp địa cầu
loan báo về Tình yêu và gieo rắc Tình yêu khắp nơi. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG GIÊNG
Nạn Thất nghiệp – Một Tai Ương Xã Hội
Con người luôn luôn là yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình lao động, từ khởi sự cho đến hoàn thành. Vì thế, trình độ văn minh của một dân tộc phản ảnh nơi chính thái độ của họ đối với những người yếu kém trong xã hội, những người gặp khó khăn trong vấn đề việc làm, những người phải đương đầu với tình trạng thiếu hay không có việc làm. Thật vậy, một trong những bi kịch của thời đại chúng ta là tình trạng có quá nhiều người thất nghiệp, nhất là những người trẻ. Chúng ta phải làm gì đây trước tình hình này?
Cần phải nhận ra rằng tình trạng ì do bắt buộc (nghĩa là muốn hoạt động nhưng không được hoạt động) là một sự dữ . Nó tạo ra một sự ngưng trệ có chiều hướng làm tê liệt chính niềm hy vọng của người ta. Những ước mơ và lý tưởng của người ta bị đe dọa, người ta trở thành quờ quạng, lóng ngóng. Người trẻ, trong trường hợp này, nhận thấy mình bị tước mất cơ hội xây dựng gia đình. Rồi, hậu quả xảy ra là những suy bại khôn lường về đạo đức và tâm lý. Quả là một tình trạng đòi chúng ta phải dành quan tâm một cách khẩn trương.
Tôi muốn nhắc đi nhắc lại rằng “tình trạng thất nghiệp – trong bất luận trường hợp nào – cũng đều là một sự dữ, và đến một mức nào đó, nó có thể trở thành một tai họa thực sự cho xã hội” (Laborem exercens 8). Thất nghiệp là một ‘nạn dịch”. Dịch bệnh này phát triển trong những cơ thể ốm yếu, suy nhược. Khi một xã hội cảm thấy mình đứng trước sự đe dọa của nạn dịch này, xã hội ấy cần phải nghiêm túc xem lại ‘sức khỏe’ của mình.
Chúng ta cần sử dụng mọi phương tiện để khảo sát và nghiên cứu vấn đề hệ trọng này – sao cho có thể tìm ra một giải pháp. Chẳng hạn, khoa xã hội học và kinh tế học chắc chắn có thể giúp ta hiểu rất nhiều về tình trạng thất nghiệp trong ánh sáng của những sự thay đổi lớn lao về công nghệ – là điều đang dẫn tới những thay đổi về điều kiện làm việc trong thời hiện đại của chúng ta.
Trong công cuộc tìm kiếm những giải pháp, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng con người là yếu tố thứ nhất mà chúng ta phải quan tâm. Sự đóng góp của con người là – và mãi mãi vẫn là – yếu tố cốt lõi cho sự tiến bộ đích thực. Không có một máy móc nào – dù tinh vi tới đâu đi nữa – có thể thay thế cho trí tuệ của con người.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 26/01
Thánh Timôthêô và Thánh Titô, giám mục
2Tm 1, 1-8; Mc 4, 26-34.
Lời Suy Niệm: Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ thay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết.” (Mc 4,26-27).
Chúa Giêsu đưa dụ ngôn về Hạt Giống gieo vào lòng đất, và sự lớn lên của nó, để ví về Nước Trời, là Người đang củng cố niềm tin của mỗi người trong chúng ta ngay hôm nay. Hãy tin vào Người và tin vào Nước Trời vì niềm vui Tin Mừng không có gì ngăn trở được. Bất kể hoàn cảnh nào, môi trường nào, đều không thể ngăn trở sự phát triển của Nước Trời. Nước Trời có sức mạnh phi thường; giống như là một hạt giống; nó sẽ phát sinh ra bộ rễ và thân cây rồi lớn lên, và phát triển thành cây, cành lá; dù ở trên đầu nó có là sỏi đá hay là bê-tông cốt sắt đi nữa nó vẫn trồi lớn lên, và phát triển lớn mạnh. Đồng thời mang trong mình nhiều hạt giống khác nữa; và rồi nó không ngừng, cứ phát triển mãi mãi.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã soi sáng cho mỗi người trong chúng với dụ ngôn về hạt giống gieo vào lòng đất và sự lớn lên của hạt giống; giúp chúng con nhận ra sức mạnh và sự phát triển của Tin Mừng Nước Trời. Xin cho mỗi người chúng con tích cực tham gia vào việc phát triển Tin Mừng, bằng chính cuộc sống của chúng con. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 26-01: Thánh TIMÔTÊÔ Và TITÔ GIÁM MỤC
Thánh TIMÔTÊÔ (thế kỷ I)
Là con của người cha Hilạp và người mẹ Do thái, thánh TIMÔTÊÔ đã được theo đạo vào năm 47 khi thánh Phaolô giảng đạo tại Lystra miền tiểu Á trong cuộc bách hại dữ dội khiến thánh Phaolô bị mém đá đến gần chết (Cv 14,6-19) Trong cuộc viếng thăm lần thứ hai vào năm 50 thánh Phaolô đã chọn Ngài như người bạn đồng hành thay thế cho Marcô (Cv 13,13.15,38) và cùng với Silas lo việc truyền giáo tại Trung Á (Cv 16,1).
Như thế, Timotêô đã chứng kiến việc rao giảng Tin Mừng đầu tiên cho Âu châu. Từ đó Ngài thường được sách Công vụ các sứ đồ và các thánh thư nhắc đến như một trong các “tông đồ” hay thừa phái thánh Phaolô giữ lại hoặc sai đi quan sát các cộng đoàn Kitô hữu đã được thiết lập. Khoảng năm 51 Ngài cũng ký tên với thánh Phaolô trong các thư gửi tín hữu Thessalonica và chính Ngài đã từ Côrintô mang thư đến cho cộng đoàn mới trở lại đạo.
Năm 57 Ngài trở lại để mang thư thứ hai gửi các tín hữu Côrintô và năm sau, Ngài lại cùng với thánh Phaolô gửi thư chào Giáo hội Rôma. Cuối cùng khi Phaolô bị điệu về Roma, Timoteo vẫn còn ở bên cạnh Ngài, ký tên vào các thư gửi đi vào khoảng năm 62 cho dân Philêmon, dân Côlosê và Philippe (Ph 2,20)
Năm 65 hình như Phaolô được thả và có dịp thi hành dự định rao giảng Tin Mừng ở thế giới tây phương. Vắng mặt ở miền Đông. Thánh Phaolô vãn liên kết với các cộng đoàn Kitô hữu, dầu không lên kết với một cộng đoàn nào với tư cách giám mục cả. Timotêô thì ước hẹn với Á Châu và đặt địa điểm ở Ephesô. Ở đây Ngài nhận được hai lá thư của Phaolô, một lá thư từ Macêdonia khoảng năm 65 và lá thứ khác khoảng hai nămsau gửi từ Roma, là nơi Phaolô bị giam lần thứ hai.
Chính nhờ những lá thư này mà chúng ta biết được nhiều về Timotêô. Chúng thường đề cập đến nguy hiểm mà các Giáo hội ở Á châu phải đương đầu, nhưng chúng cũng đưa ra ánh sáng tính khí mà con người Phaolô đã để lại chống đỡ với nguy hiểm. Rõ ràng là có tính nhút nhát, e dè, nhưng Ngài cũng đủ nhiệt tâm trong công việc, đến nỗi cần được nhắc nhở phải quan tâm tới sức khỏe của mình. Ngài cũng biết rõ những đau khổ phải chịu để bảo vệ đức tin (2Tm 3,12) và những lời khuyên thánh Phaolô lặp lại không được gợi lên, bởi rằng Timotêô yếu đuối, nhưng đúng hơn vì biết rằng ngày cùng của mình đã gần, và rồi những người trợ giúp mình sẽ phải kề vai vác lấy gánh nặng một mình. Cuối cùng Phaolô chỉ còn biết nhắc đến ước nguyện của mình là Timotêô hãy giữ “đạo lý”, đức hạnh, dự định, lòng tin, đại lượng, mến yêu, kiên nhẫn” (Tm 3,10) như Ngài đã học được. Phaolô gọi Timotêô đến an ủi mình trong những giờ phút cuối cùng, lời gọi chứng tỏ hùng hồn rằng Timotêô là con rất thân yêu của thánh Phaolô.
Tân ước còn có một ghi chú nữa về Timotêô trong thư Philip.13,23 trong đó có ghi nhận rằng: Phaolô được thả ra khỏi cảnh tù tội lần 2 khoảng năm 67 và tác giả muốn có Timotêô tháp tùng về Giêrusalem.
Một truyền thống cho rằng thánh Timotêô đã ở lại Ephêsô cho tới hết đời. Sách “Công vụ thánh Timotêô” thế kỷ IV mô tả cái chết của Ngài như là bị ném đá và bị đánh đập cho đến chết, nhưng tài liệu quá ít nên không rõ được rằng điều đó có đúng nguồn hay không.
Constantinople cho rằng: mình giữ được các di tích của thánh nhân và lễ kinh nhớ Ngài được cử hành này 26 tháng giêng, tiếp liền ngày kính nhớ thầy mình.
*******
Thánh TITÔ (thế kỷ I)
Sinh ra là lương dân, thánh Titô đã được thánh Phaolô cải hóa và được gọi là “người con chân thành của tôi trong sự thông hiệp với đức tin”. Titô nhận được những sứ mệnh khó khăn. Ngài được thánh tông đồ gửi tới dân Côrintô để tổ chức giáo đoàn và thu tiền quyên cúng ủng hộ Giáo hội ở Gierusalem.
Thánh Phaolô trong một bức thư đã bộc lộ lòng yêu quý sâu xa đối với người bạn đời của mình: “Tâm trí tôi không thảnh thơi chút nào vì xa cách bạn Titô đi Côrintô một lần nữa để sửa chữa những bất hoà và thánh Titô đã mang lại cho Ngài những tin tức tốt đẹp hơn.
Thánh Titô lãnh trách nhiệm tổ chức giáo đoàn ở đảo Crêta. Ơ đó Ngài nhận thư mang danh mình, thánh tông đồ truyền: “Hãy nói với các vị cao niên phải tiết độ đàng hoàng điềm đạm, lành mạnh về đức tin, đức mến và kiên nhẫn… hạng thiếu niên cũng vậy, hãy truyền dạy họ phải biết ở điềm đạm. Trong mọi sự anh em hãy tỏ ra là gương mẫu về đức hạnh, tinh toàn và đoan trang trong giáo huấn (Tt 2,2-10).
Thánh Titô qua đời khoảng năm 105.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
26 Tháng Giêng
Quốc Khánh Của Australia
Hôm nay 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australiacó thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtêmang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Oân lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu – Tuần 3 – TN2
Bài đọc: Heb 10:32-39; 2 Sam 11:1-4a, 5-10b, 13-17; Mk 4:26-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người công chính sống bởi đức tin.
Trong cuộc đời, có nhiều điều xảy ra vượt quá khả năng hiểu biết của con người, chẳng hạn: chúng ta không cắt nghĩa được sự sống, chúng ta không giải thích nổi đức tin; vì những điều này đến từ Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự liên hệ giữa đức tin và sự sống. Con người phải trung thành giữ vững đức tin để đạt được sự sống muôn đời; cho dù phải chờ đợi lâu dài và chịu đựng đau khổ. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu phải giữ vững đức tin có được từ thuở ban đầu, và phải kiên trì sống đức tin đó cho tới khi đạt được sự sống muôn đời.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa vừa hứa sẽ ban cho David một dòng dõi làm vua trị vì muôn đời; thế mà David lại vừa phạm hai tội tày đình trong trình thuật hôm nay: tội lấy vợ của người và tội giết người. Hai tội này mở màn cho những tội kế tiếp trong dòng dõi David: loạn luân, giết người, thù địch giữa anh em, cha con… Con người tự hỏi làm sao lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua những trang sử đen tối của nhà David! Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu so sánh Nước Thiên Chúa giống như hạt giống gieo xuống đất, con người có biết đến hay không thì hạt giống vẫn sống: nó nẩy mầm, bén rễ, mọc lên, sinh hoa kết trái, và sẵn sàng cho mùa gặt. Ngài cũng so sánh Nước Thiên Chúa như hạt cải, tuy nhỏ bé nhất trong các hạt giống, nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn cho muôn chim kéo đến làm tổ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em vào một kho tàng cao quí.
1.1/ Phải giữ vững đức tin: Tác-giả Thư Do-thái nhắc nhở cho các tín hữu nhớ lại thuở ban đầu khi họ vừa lãnh nhận đức tin: “Xin anh em nhớ lại những ngày đầu, lúc vừa được chiếu sáng, anh em đã phải vật lộn với bao nỗi đau khổ: khi thì chính anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì anh em cùng cảm thông với những người trong cảnh ngộ như thế. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải; vì biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn lại vừa bền vững. Vậy, anh em đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần thưởng lớn lao.”
Con người dễ đương đầu với khó khăn hơn là với thịnh vượng giàu sang, vì khó khăn làm con người luôn phải cố gắng vươn lên, trong khi cuộc sống dễ dàng luôn kéo con người xuống. Ngoài ra, khi con người phải sống trong hòan cảnh nghèo khổ, con người dễ trông cậy nơi Thiên Chúa và sống bác ái với anh chị em, hơn là khi con người thành công và giàu có. Tục ngữ Việt Nam có lý do để nói: “giầu đổi bạn, sang đổi vợ.” Làm sao để con người luôn giữ đức tin và tình yêu có được thuở ban đầu?
1.2/ Phải kiên nhẫn chờ đợi những gì Thiên Chúa hứa: “Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa. Vì chỉ còn ít lâu nữa, một ít thôi, Đấng phải đến sẽ đến, Người sẽ không trì hoãn. Người công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta không hài lòng về người ấy. Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống.” Tác giả đưa ra 2 điều giúp con người giữ vững đức tin và tình yêu của mình:
(1) Ngày Chúa Quang Lâm sẽ đến: Trong Ngày này, Ngài sẽ thực thi những gì Ngài đã hứa cho những ai trung thành giữ những gì Ngài dạy.
(2) Phải luôn giữ vững niềm hy vọng vào Ngày này: Con người dễ mất kiên nhẫn và bị chia trí vào những cám dỗ ở đời này, mà quên đi giá trị “vừa quý giá hơn lại vừa bền vững” ở đời sau. Không gì đời này có thể so sánh với sự sống muôn đời và hạnh phúc con người sẽ lãnh nhận.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vua David phạm hai tội nặng nề trước mặt Thiên Chúa.
2.1/ David phạm tội ngoại tình: Trình thuật kể: “Lúc xuân về… Vào một buổi chiều, vua David từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời. Vua David sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: “Đó chính là bà Bathsheba, con gái ông Eliam, vợ ông Uriah người Hittite.”
Vua David sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua David rằng: “Tôi có thai.””
Để chạy tội làm bà Bathsheba có thai, hai lần vua David dùng xảo kế để Uriah chồng bà về ăn nằm với Bà; nhưng cả hai lần vua đều thất bại, vì Uriah từ chối không về nhà gặp vợ.
2.2/ David phạm tội giết người: Để diệt trừ tai tiếng, vua David nghĩ cách để giết Uriah cách êm thắm. Vua viết thư cho ông Joab và gửi ông Uriah mang đi trong thư, với những lời lẽ như sau: “Hãy đặt Uriah ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.” Ông Joab đang thám sát thành liền để ông Uriah ở chỗ ông biết là có quân hùng mạnh nhất. Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Joab. Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua David đã ngã gục, và ông Uriah, người Hittite, cũng chết.
Vua David tưởng “chó chết hết chuyện;” nhưng vua có ngờ đâu hậu quả khốc liệt đang chờ đổ xuống trên nhà David trong những thời gian kế tiếp! Nhưng cũng chính vì những biến cố này mà David cảm nhận được tình thương Thiên Chúa qua những bài thánh vịnh nói lên tấm lòng ăn năn thống hối của ông. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những gì Ngài hứa với David ngang qua những lúc tăm tối nhất của cuộc đời. Điều quan trọng là David luôn tin tưởng và kiên trung vượt qua mọi thử thách, chứ không đánh mất niềm tin và hy vọng nơi Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Đức tin, tiềm năng của sự sống, đến từ Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu diễn giải qua 2 ví dụ. Mục đích của việc diễn giải là để nói lên: (1) Nước Thiên Chúa lớn mạnh là do Thiên Chúa, không do công sức của con người; và (2), Nước Thiên Chúa tuy bắt đầu bé nhỏ, nhưng có tiềm năng lan rộng khắp thế giới.
3.1/ Nước Thiên Chúa được ví như một hạt giống chứa đựng tiềm năng của sự sống: Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa.” Qua ví dụ này, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến 3 điều sau đây:
(1) Con người không phải là tác giả của sự sống: Sự sống đến từ Thiên Chúa và được trao ban cho muôn vật. Trong sự tạo dựng của Thiên Chúa, hạt giống tự nó đã có tiềm năng của sự sống. Con người không cho hạt giống sự sống, nhưng có thể giúp nó tăng trưởng và cho kết quả tốt hơn. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa đến từ Thiên Chúa và đã có tiềm năng phát triển. Con người không tạo nên Nước Thiên Chúa, nhưng có thể giúp cho Nước Thiên Chúa mau đến.
(2) Đặc điểm của Nước Thiên Chúa:
* Sự tăng trưởng của nó không hiểu được: Con người có thể nhìn thấy sự tăng trưởng của hạt giống, nhưng không thể cắt nghĩa sự tăng trưởng của nó. Cũng vậy, con người có thể nhìn thấy Nước Thiên Chúa lớn mạnh dần, nhưng không thể cắt nghĩa lý do của sự lớn mạnh này.
* Sự tăng trưởng của nó cứ phát triển đều đặn: Không giống như sự tiến bộ của con người, có lúc tăng trưởng có lúc suy thoái. Sự tăng trưởng của hạt giống và của Nước Thiên Chúa cứ phát triển đều đặn và lớn mạnh dần.
(3) Mùa màng sẽ tới: Khi gieo giống xuống, con người chờ đợi mùa màng tới. Cũng vậy, khi Thiên Chúa bắt đầu triều đại của Ngài, là sẽ có ngày vinh quang. Con người cần kiên nhẫn và chuẩn bị xứng đáng cho Ngày đó.
3.2/ Tiềm năng của sự sống không lệ thuộc vào hình dạng bên ngoài: Hạt cải là hạt bé nhỏ nhất nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn: Hạt cải của Palestine là hạt có thể trở thành cây, chứ không phải chỉ trở thành rau như của chúng ta. Trong thế giới thời đó, các đế quốc thường được ví như cây, và các nước chư hầu được ví như cành. Chúa Giêsu có ý muốn nói: Nước Thiên Chúa bắt đầu với một nhóm người Do-thái nhỏ; nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn, và tất cả con người thuộc mọi quốc gia đến tìm chỗ nương tựa. Điều này đã được chứng minh bằng con số hơn một nửa dân số của thế giới đã tin vào Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức tin là quà tặng quí giá Thiên Chúa ban cho con người. Chúng ta phải trân quí, phát triển, và giữ vững đức tin.
– Con người sống là nhờ đức tin và hy vọng vào Đức Kitô. Nếu không đặt niềm tin nơi Đức Kitô, chúng ta sẽ không có hy vọng được sống muôn đời.
– Đức tin phải được thử thách như lửa thử vàng. Chúng ta cũng bị thử thách như trường hợp của vua David. Điều quan trọng là chúng ta cần phải can trường giữ vững đức tin và niềm hy vọng vào những gì Thiên Chúa hứa trong gian nan thử thách và chờ đợi lâu dài. Thiên Chúa sẽ ban sự sống đời đời cho những ai bền vững đến cùng.
– Đức tin có tiềm năng lớn mạnh và thực hiện những chuyện vượt quá sức con người. Vì thế, khi chúng ta chưa thực hiện được những gì Thiên Chúa đòi, đức tin của chúng ta còn non nớt, yếu kém. Chúng ta cần xin Ngài củng cố niềm tin cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************