Ngày thứ tư (01-04-2020) – Trang suy niệm

31/03/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư Tuần V Mùa Chay Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: Đn 3, 14-20. 91-92. 95

“Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người”.

Trích sách Tiên tri Đaniel.

Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: “Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta”. Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: “Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên”.

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: “Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?” Các ông trả lời với vua rằng: “Tâu lạy vua, thật có”. Vua nói: “Đây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa”. Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: “Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Đấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Đn 3, 52. 53. 54. 55. 56

Đáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).

Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. – Đáp.

2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.

3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.

4) Chúc tụng Chúa, Đấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.

5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.

CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 11, 25a và 26

Chúa phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời”. 

PHÚC ÂM: Ga 8, 31-42

“Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi sẽ được tự do’?”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là Abraham!” Chúa Giêsu nói: “Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!” Họ lại nói: “Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu nói: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

01/04/2020 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 5 MC

Ga 8,31-42

SỰ THẬT ĐEM LẠI TỰ DO

“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” (Ga 8,31)

Suy niệm: Người Do Thái thời Chúa Giê-su khao khát mong chờ Đấng Mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo. Nhưng Đấng Mê-si-a đối với họ phải là người khôi phục vương quyền Đa-vít bằng quyền lực và sức mạnh quân đội để thống trị các dân nước. Thế nhưng quan niệm đó lại không nói lên sự thật về Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đích thực hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (x. Mc 10,45). Họ đã không chấp nhận sự thật về một Đấng Cứu Thế chịu khổ nhục như thế, và do đó không thể tin nhận Đức Giê-su là chính Con Thiên Chúa, sẽ giải phóng họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi, giải thoát họ khỏi sự chết muôn đời và thừa hưởng sự sống vĩnh cửu nhờ giá máu của Ngài.

Mời Bạn: Con người ai cũng quý tự do. Và người ta nhiều cách để được tự do như mình mong muốn. Nhưng tự do cao quý nhất là được giải thoát khỏi tội lỗi để đạt được sự sống đời đời, tự do ấy chỉ có thể có được nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô Đấng đã chịu chết và sống lại. Đức tin là một hồng ân mà Thiên Chúa thương ban cho bạn cách vô điều kiện, nhờ đó, bạn được thừa hưởng sự sống đời đời. Bạn đã sống và loan truyền niềm tin về Đức Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất của trần gian như thế nào?

Sống Lời Chúa: Bạn làm một cử chỉ dù nhỏ bé và kín đáo để diễn tả niềm tin của mình mỗi khi làm bất cứ công việc gì, và luôn sẵn sàng để giới thiệu Đức Ki-tô Cứu Thế cho anh chị em lương dân mỗi khi Chúa mời gọi bạn làm điều đó.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, người nhận biết Thánh Danh sẽ một niềm tin cậy, vì Chúa chẳng bỏ rơi những ai kiếm tìm Ngài. (Tv 9,11)

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

1 THÁNG TƯ

Thiên Chúa Của Tình Yêu Vô Hạn

Bao nhiêu người trên thế giới, bao nhiêu dân tộc, bao nhiêu truyền thống, bao nhiêu nền văn hóa, bao nhiêu tôn giáo đã bảo vệ và tiếp tục bảo vệ hình ảnh của chính mình nghĩ ra về Thiên Chúa?

Thiên Chúa là hữu thể vô cùng hoàn hảo, là hữu thể tối cao và khôn dò; Ngài là Chủ Tể tuyệt đối của mọi sự. Dường như chuyện Ngài trở thành con người là điều không thể được; cũng dường như không thể được, chuyện Ngài hầu hạ và rửa chân cho các tông đồ, hoặc chuyện Ngài có thể chết trên thập giá. Nhưng, đó là cái nhìn của con người.

Cái nhìn của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác. Nói một cách thật đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã tạo thành con người theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập giao ước với con người. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã trở thành con người. Thiên Chúa đã yêu thương thế giới đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để cho con người có thể đạt được sự sống đời đời (Ga 3,16). Vì Ngài là tình yêu, Thiên Chúa đã chấp nhận con đường thập giá để thứ tha tội lỗi nhân trần và để thiết lập giao ước mới – giao ước vĩnh cửu – trong máu Ngài. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể.

Tình yêu không nhắm gì khác ngoài sự tốt lành mà nó khao khát muốn làm. Vì sự tốt lành này mà Đấng Toàn Năng sẵn lòng trở nên yếu đuối như một con người, chấp nhận số phận chết như một con người. Ngài sẵn lòng trở nên yếu đuối và bị nhai nuốt đi như tấm bánh: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em. Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).

Con người có thể chấp nhận một Thiên Chúa chịu đóng đanh hay không? Con người có thể chấp nhận một Thiên Chúa hiến tế hay không? Đó là câu hỏi được đặt ra ngay chính trung tâm của Tam Nhật Thánh.

Hỏi – tức là đã trả lời. Vâng, con người có thể chấp nhận hay từ chối vị Thiên Chúa của tình yêu vô hạn ấy. Thật vậy, con người có thể quay lưng chống lại Thiên Chúa hay thậm chí phủ nhận sự hiện hữu của Ngài. Nhưng còn Thiên Chúa, Ngài “không thể phủ nhận chính Ngài” (2Tm 2,13). Ngài không thể thôi là chính Ngài! Ngài không thể thôi là tình yêu!

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 01/4

Đn 3, 14-20.24-25.28; Ga 8, 31-42.

Lời Suy Niệm: “Giả như các ông là con cái ông Ápraham, hẳn các ông phải làm những việc ông Ápraham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Ápraham đã không làm.”

       Thiên Chúa đã ban cho con người có lý trí, sự khôn ngoan và sự tự do. Nhưng con người đã không biết sử dụng đúng, để hướng về Thiên Chúa, phụng thờ Ngài và tạ ơn Ngài; họ chỉ muốn thực hiện những gì họ  suy nghĩ theo bản tính con người với sự hạn hẹp của mình, nên họ đã không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.

       Lạy Chúa Giêsu, trong thời đại của chúng con vẫn còn nhiều người không nhận biết Chúa, mà lại thờ ngẫu tượng. Xin cho công cuộc truyền bá đức tin ngày càng được mở rộng, với sự hăng say và nhiệt thành của hết mọi thành phần Dân Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

01 Tháng Tư

Tu Ðâu Cho Bằng Tu Nhà Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Ðạo Con

 Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.

Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.

Ði được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ: “Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật”.

Dương Phủ hỏi vặn lại: “Phật ở đâu?”. Vị lão tăng giải thích: “Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy”.

Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Ði dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Ðức Phật mà vị lão tăng đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.

Thứ nhất thì tu tại gia

Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.

Ðể yêu thương con người một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người. Chúa có cha, có mẹ. Chúa sinh ra trong một gia đình… Con người không chỉ được cứu rỗi một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để sinh ra, để lớn lên và thành toàn… Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân sủng và dáng vóc. Chúa đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc, học viết và ngâm nga từng câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng cụ trong xưởng mộc của Thánh Giuse.

Trong ba năm sống đời công khai, ngôn ngữ vàcách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự giáo dục mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.

Xin Chúa thánh hóa tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài… Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư Tuần V MC

Bài đọc: Dan 3:14-20, 91-92, 95; Jn 8:31-42.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật giải phóng con người.

Con người thường không muốn người khác vạch ra những điều sai trái của mình, nhất là đối với những người có quyền thế. Nhưng dù sự thật mất lòng nhưng có sức mạnh giải phóng con người. Nhiều người tưởng mình đang sở hữu sự thật, nhưng thực ra họ đang làm nô lệ cho sự giả trá. Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc con người phải tìm ra sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng con người.

Trong Bài Đọc I, Vua Nebuchadnezzar nghĩ các thần do tay mình dựng nên là thần thật nên bắt ba trẻ Do-thái phải sụp lạy chúng khi nhạc khí xướng lên; nếu không sẽ quăng chúng vào lò lửa đang cháy. Ba trẻ Do-thái từ chối vì họ nhất quyết chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Khi chính mắt nhìn thấy uy quyền của Thiên Chúa từ lò lửa, chính vua Nebuchadnezzar đã khiêm nhường thú nhận: chỉ có Thiên Chúa của ba trẻ Do-thái thờ là Thiên Chúa thật. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn chỉ cho người Do-thái thấy họ thực sự không phải là con cái của Abraham, vì họ không làm những gì tổ-phụ Abraham đã làm: tin Thiên Chúa và đón tiếp các ngôn sứ Ngài gởi tới. Họ không tin những gì Ngài nói và đang tìm cách giết Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ba trẻ Do-thái làm chứng cho sự thật.

1.1/ Ba trẻ Do-thái từ chối không thờ thần nào khác ngòai Thiên Chúa: Vua Nebuchadnezzar đe dọa ba trẻ: Này Shadrach, Meshach, và Abednego, nếu các ngươi không phụng sự các thần của ta và không chịu thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, để xem có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?”

Ba trẻ Do-thái can đảm nói với Vua: “Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này. Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!” Vua tức giận, lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần. Rồi vua ra lệnh cho những người lực lưỡng nhất trong quân đội của vua trói ba trẻ và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng phực.

1.2/ Vua Nebuchadnezzar nhận ra Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego.

(1) Vua nhận thấy sự khác lạ xảy ra trong lò lửa: Vua Nebuchadnezzar ngạc nhiên đứng bật dậy và cất tiếng nói với các quan cố vấn: “Chẳng phải chúng ta đã quăng ba người bị trói vào lửa sao?” Họ đáp rằng: “Tâu đức vua, đúng thế!” Vua nói: “Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống như con của thần minh.”

(2) Vua tin vào Thiên Chúa của ba trẻ: Khi nhận ra Thiên Chúa đã gởi thiên thần đến cởi trói cho ba trẻ để họ đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, Vua Nebuchadnezzar cất tiếng nói: “Chúc tụng Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ.”

2/ Phúc Âm: Sự thật sẽ giải phóng các ông.

2.1/ Chúa Giêsu là sự thật của Thiên Chúa.

(1) Sự thật giải phóng: Đức Giêsu nói với những người Do-thái đã tin Người: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ phải tin những lời Ngài nói là sự thật; và những lời này sẽ giải phóng họ khỏi những gì sai trái. Lúc đó họ sẽ có tự do đích thực, vì họ đã biết sự thật. Vì thế, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa: ở lại trong lời Chúa Giêsu, trở thành môn đệ, sự thật, và tự do đích thực.

Những người Do-thái không hiểu lời Chúa Giêsu nói, nhưng tự ái vì Ngài ám chỉ họ làm nô lệ. Họ đáp: “Chúng tôi là giòng dõi ông Abraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” Thực sự, người Do-thái đã từng làm nô lệ cho Ai-cập, Assyria, Babylon, và Rome; nhưng ý họ muốn nói: họ thuộc giòng dõi Abraham, dân của Thiên Chúa.

(2) Chúa Giêsu giải phóng con người khỏi tội: Điều Chúa Giêsu muốn nói là họ đang làm nô lệ cho tội: hễ ai phạm tội là làm nô lệ cho tội. Có một sự khác biệt giữa con cái và nô lệ: con cái được ở trong nhà luôn mãi, nô lệ không được như vậy vì có thể bị bán và tống cổ bất cứ lúc nào. Chúa Giêsu muốn cảnh cáo người Do-thái: các ông phải coi chừng, các ông hãnh diện mình là con cái của Abraham; nhưng nếu các ông phạm tội, các ông trở thành nô lệ, và có thể bị tống cổ ra ngòai.

Nếu họ tin vào Chúa Giêsu, họ sẽ được giải phóng khỏi tội, và họ mới thực sự được tự do; nhưng người Do-thái chẳng những không tin vào lời Chúa Giêsu, lại còn tìm cách giết Ngài. Chúa Giêsu phân biệt Cha của Ngài và cha của người Do-thái. Họ hãnh diện tuyên xưng: Cha chúng tôi là Abraham.

2.2/ Tổ-phụ Abraham tin vào Thiên Chúa: Chúa Giêsu không tin lời họ nói; vì nếu họ là con cháu Abraham, họ có cùng Cha với Ngài vì Abraham tin vào Thiên Chúa. Ngài muốn nói với họ, đức tin không phải chỉ tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải chứng tỏ bằng việc làm: “Giả như các ông là con cái ông Abraham, hẳn các ông phải làm những việc ông Abraham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Abraham đã không làm. Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm.”

Abraham đón tiếp các sứ giả của Thiên Chúa (Gen 18:1-8), chứ không tìm cách giết họ như người Do-thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu. Nếu các ông tìm cách giết người được Thiên Chúa sai đến, các ông không phải là con cái Thiên Chúa, cũng chẳng phải là con cái của tổ-phụ Abraham.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải học cho biết sự thật bằng bất cứ cách nào, vì chỉ có sự thật mới giải phóng và cho chúng ta sự tự do đích thực.

– Bao lâu chúng ta còn phạm tội là làm nô lệ cho tội. Chỉ có Đức Kitô mới có thể giải phóng chúng ta khỏi làm nô lệ cho tội. Chúng ta phải tin và làm những gì Ngài dạy.

– Đức tin không chỉ là những gì chúng ta hãnh diện tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Chúng ta không được cứu bằng chỉ tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải thực hành những gì Chúa dạy và phải can đảm làm chứng cho Ngài bằng hành động.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************