Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Tư Tuần XVIII Mùa Thường Niên Năm lẻ
Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục
BÀI ĐỌC I: Ed 3, 16-21
“Ta đã đặt ngươi làm trinh sát nhà Israel”.
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, có lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người trinh sát nhà Israel; ngươi hãy nghe lời Ta phán từ miệng Ta và ngươi sẽ khuyến cáo họ thay cho Ta. Nếu khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng: Mi sẽ phải chết, mà ngươi lại không khuyến cáo nó và nói cho nó biết để lôi kéo nó ra khỏi con đàng gian ác của nó và để nó được sống, thì kẻ gian ác đó sẽ phải chết trong tội lỗi của nó, lúc đó Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu cho nó. Còn nếu ngươi khuyến cáo kẻ gian ác mà nó không từ bỏ tội lỗi và con đàng gian ác của nó, thì nó sẽ phải chết trong tội lỗi của nó; còn ngươi, ngươi cứu thoát được mạng sống ngươi.
“Nhưng nếu người công chính từ bỏ sự công chính của nó và làm điều gian ác, Ta sẽ đặt chướng ngại vật trước mặt nó, nó sẽ phải chết, vì ngươi đã không khuyến cáo nó; nó sẽ phải chết trong tội lỗi của nó và người ta không còn nhớ đến những việc công chính nó đã thực hiện trước kia; nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu cho nó. Còn nếu ngươi khuyến cáo người công chính đừng phạm tội và nó đã không phạm tội, nên nó được sống, vì ngươi đã khuyến cáo nó và ngươi cứu thoát được mạng sống ngươi”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 116, 1. 2
Đáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người. – Đáp.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. – Đáp.
ALLELUIA: x. Lc 2, 25c
Alleluia, alleluia! – Chúa đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 9, 35 – 10, 1
“Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.
Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.
Và Người liền triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Đó là lời Chúa.
Lễ Thường Niên
BÀI ĐỌC I: Ds 13, 1-3a. 26 — 14, 1. 26-29. 34-35
“Đất ngon lành họ đã không thèm” (Tv 77, 24)
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê (ở trong hoang địa Pharan) rằng: “Ngươi hãy sai đàn ông, mỗi chi tộc một người (thuộc hàng vương công trong chúng), đi xem đất Canaan mà Ta sẽ ban cho con cái Israel”.
Sau bốn mươi ngày, những người dò thám đất đi khắp miền, đoạn trở về. Họ đi gặp Môsê, Aaron và toàn thể cộng đồng con cái Israel ở sa mạc Pharan, tại Cađê. Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng đồng, và cho người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói: “Chúng tôi đã vào đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất chảy tràn sữa và mật, và đây là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân cư trong xứ hùng cường! Thành trì kiên cố (và) lớn lắm, và chúng tôi đã thấy ở đó cả những con cháu Anaq. Có Amalec ở vùng Namsa; có dân Hit-tit, Giơbusi và Amori ở trên núi; còn dân Canaan thì ở gần biển và bờ sông Giođan”.
Bấy giờ Caleb truyền cho dân nín bặt trước Môsê. Ông nói: “Ta cứ lên chiếm đất ấy, vì ta sẽ thắng nổi nó!” Những người cùng lên với ông đáp lại: “Ta không thể lên đánh dân ấy, vì nó mạnh hơn ta”. Và họ buông lời chê bai giữa con cái Israel về đất họ đã dò thám, họ nói: “Đất chúng tôi đã băng qua để dò thám là đất làm tiêu diệt cả những người ở trên ấy; dân chúng tôi đã thấy trong xứ toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi đã thấy ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng lồ). Quay nhìn lại mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu, và trước mắt họ, chúng tôi chỉ như thế đó”.
Và toàn thể cộng đồng kêu la; họ lên tiếng, và đêm ấy toàn dân la lối khóc lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: “(…) Phải chi chúng tôi chết quách ở trong sa mạc này!”).
Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: “Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 105, 6-7a. 13-14. 21-22. 23
Đáp: Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con (c. 4a).
Xướng:
1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa. – Đáp.
2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu. – Đáp.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Đỏ. – Đáp.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 15, 21-28
“Này bà, bà có lòng mạnh tin”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”.
Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Người trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”.
Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Người đáp: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Bà ấy đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”.
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
04/08/2021 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 18 TN
Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
Mt 15,21-28
KIÊN NHẪN ĐẾN CÙNG
Bấy giờ, Chúa Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.” (Mt 15,28)
Suy niệm: Người phụ nữ xứ Ca-na-an đau khổ và bất lực vì đứa con gái bị quỷ ám giày vò “khổ sở lắm”. Khi đến xin Đức Giê-su cứu chữa, bà đã tôn xưng Ngài là Con Vua Đa-vít vì bà tin Ngài có quyền năng thần linh có thể thắng được ma quỷ. Thế nhưng, thoạt đầu Chúa Giê-su đáp lại lời bà kêu xin bằng sự thinh lặng lạnh lùng. Mức độ thử thách càng lúc càng tăng: Chúa thẳng thừng từ chối lời khẩn nài lại còn buông lời miệt thị nguồn gốc Ca-na-an của bà. Nhưng bà vẫn kiên trì, không bỏ cuộc; bà tiếp tục đi theo kêu nài và bà đã không hoài công vô ích, bà được Chúa nhậm lời cùng với lời khen ngợi. Bà đã khám phá ra rằng vẻ lạnh lùng vô cảm của Ngài chỉ là thử thách, và phần thưởng cho lòng tin mạnh mẽ và kiên vững của bà là món quà tặng thật lớn lao của Chúa: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
Mời Bạn: Ngày nay nhiều người hô hào “sống chậm lại, nghĩ khác đi” bởi vì lối sống vội của chủ nghĩa thực dụng và hưởng thụ đang len lỏi vào mọi lĩnh vực cuộc sống, từ cách ăn uống, kiếm tiền và tiêu tiền cho đến cách học hành, yêu đương, và từ đó, biến con người thành khô cằn ích kỷ. Họ mất đi khả năng kiên trì và hy sinh trước cơn thử thách, mà đó lại là điều kiện để đức tin được tôi luyện và nên vững mạnh.
Sống Lời Chúa: Tập “sống chậm” bằng cách kiềm chế những cảm xúc tức thời thái quá, và dành thêm thời gian thinh lặng suy niệm Lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin ban thêm lòng tin còn yếu đuối của con.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG TÁM
Chúng Ta Không Đau Khổ Một Mình
Đối với câu hỏi bằng cách nào hòa giải sự dữ và đau khổ trên trần đời với chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta không thể đưa ra một câu trả lời đầy đủ mà không qui chiếu đến Đức Kitô. Một đàng, qua cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Người – và nhất là qua cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người – Đức Kitô xác nhận rằng Thiên Chúa có mặt với mọi người trong đau khổ của họ.
Hơn th ế nữa, Đức Kitô đã đảm nhận nơi chính Người tất cả những đau khổ của cuộc hiện sinh con người trên trái đất này. Đồng thời, Đức Giê-su Kitô mạc khải rằng đau khổ ấy có một giá trị và năng lực cứu độ. Trong đau khổ ấy có sự chuẩn bị của “một gia tài không thể hư hại, tàn phai” mà Thánh Phêrô đề cập đến trong Thư thứ nhất của ngài: “một gia tài được giữ trên trời cho anh em” (1Pr 1,4).
Như vậy, chân lý về sự quan phòng đạt được ý nghĩa cánh chung cuối cùng của nó xuyên qua “sức mạnh và sự khôn ngoan” của Thập Giá Đức Kitô. Câu trả lời đầy đủ cho vấn đề sự dữ và đau khổ được cung ứng bởi mạc khải của Thiên Chúa qua sự tiền định nơi Đức Kitô. Vì sự tiền định này cho ta thấy rằng ơn gọi của con người là đạt đến sự sống vĩnh cửu – tức tham dự vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Và đây là câu trả lời chính xác mà Đức Kitô đã đem lại cho chúng ta. Người đã xác nhận câu trả lời này qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/8
Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục
Ds 13, 1-2. 25-14, 1. 26-29. 34-35; Mt 15, 21-28.
LỜI SUY NIỆM: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Trong câu chuyện người đàn bà Canaan, cầu xin Chúa Giêsu cứu chữa cho người con gái của mình bị quỷ ám. Cho chúng ta thấy được tình yêu tuyệt vời nơi một người mẹ, nỗi đau của đứa con trong gia đình, là nổi đau của chính bà. Người mẹ sẵn sàng hy sinh, chịu đựng tất cả, dẹp bỏ tất cả; để cứu được sự sống con mình, sự sống tốt lành nhất. Thứ đến cho chúng ta thấy được trong cầu nguyện cần phải có sự liên lỉ và khẩn thiết. Đồng thời, Chúa Giêsu còn cho biết mọi Kitô hữu là thành phần được ưu tiên lãnh ẩn sủng của Người; Và qua ân sủng đó người bên ngoài mới được hưởng nhờ.
Lạy Chúa Giêsu. Làm con cái của Chúa là một hồng ân lớn lao và hạnh phúc, qua chúng con Chúa sẽ chúc phúc cho những người chung quanh chúng con. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con nhận biết điều này, để sống với trách nhiệm lớn lao này.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-08: Thánh GIOAN MARIA VIANEY
Linh Mục (1786 – 1859)
Gioan Maria Vianney sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786 tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức tin.
Năm lên 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798 Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799 Gioan cùng với 15 em khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Mân côi kỷ niệm ngày hạnh phúc này.
Năm 1800 thanh bình trở lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ Gioan đã muốn làm linh mục. Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, họ Ecully. Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau Ngài may mắn được trở về nhà.
Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục. Không thất vọng một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.
Sau khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : – “Đây là một họ đạo nhỏ bé nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ”.
Ngày 9 tháng 2 năm 1818 cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.
Nhà xứ Ars thật nghèo nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ họ đạo lại coi đời sống cầu nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm, nhiều lần với nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện : – Lạy Chúa, con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con… Con bằng lòng chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.
Chìm đắm trong kinh nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác, mà Ngài coi như cái thây ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng, Ngài đem cho người nghèo… Vui cười Ngài nói: – Tôi không hề mất áo choàng bao giờ. Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu một nồi khoai rồi treo lên tường.
Khi đói Ngài ăn một hai củ và củ thứ ba là “để cho vui miệng”. Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827, khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.
Hơn nữa thánh nhân còn tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài còn loang lổ nhiều vết máu.
Với một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức, thói quen làm việc xác ngày Chúa nhật và tật ham khiêu vũ.
Để chấn hưng lại tình trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm mình. Trong hoạt động Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng, Đêm thứ bảy cha học và tập giảng – cho hôm sau lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người nghe.
Chẳng hạn Ngài nói: – Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi… danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.
– Càng cầu nguyện người ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.
Các câu chuyện nhỏ cha kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị đau bịnh :- Con đau đớn lắm không ?
Cậu bé trả lời “Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ”.
Cha hỏi lại : – Vậy con muốn được lành bệnh không ?
– Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Chống lại tật làm việc xác, cha nói: – Ngày chủ nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc ngày Chúa nhật và lấy của kẻ khác.
Để chống lại tật ham khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu nữ vào việc thực hành đạo đức này.
Hơn nữa, trong họ có bảy quán rượu cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều đóng cửa.
Thấy trọng trách của một chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi tòa giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la lối om sòm, hiện hình kỳ quái… đến độ đốt cháy cả giường nằm.
Nhớ lại tất cả những gì đã trải qua, cha nói:
– Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
Nhưng ơn thánh Chúa đã nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha Gioan đã làm vui lòng mọi người.
Suốt hai mươi năm trời, cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau này khi được qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở Ars.
Tận tụy với các linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói : “Con chó của ông thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào”. Cúi mặt người du khách vào toà xưng tội.
Một người đàn bà khác nghe cha nói: “Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội…”. Thế là cha đã biết nỗi lo âu sầu của bà, vì cái chết mới đây của chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: nhờ những bó hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã được cứu rỗi.
Đời sống của cha Gioan là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: “Hạnh phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn”.
Quả thực, cha Gioan đã hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859 cha chịu các phép bí tích sau hết. Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện.
– Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.
Ngày tháng 5 năm 1925, cha Gioan được tôn phong hiển thánh và năm 1925 được đặt làm bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
04 Tháng Tám
Sức mạnh Của Thiên Chúa
Ðược biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh mẽ”.
Năm 1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
Sau ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: “Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng”.
Thực ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
Ý thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Ðể thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.
Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.
Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với Thiên Chúa.
Cha Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là “Giờ của Thiên Chúa”. Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư – Tuần 18 – TN1 – Năm Lẻ
Bài đọc: Num 13:1-2, 25 -14:1, 26ª-29ª, 34-35; Mt 15:21-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên trì vượt qua gian khổ mới hy vọng được thành công.
Nhiều người thích được thành công, thích ngồi mơ mộng để dệt đời mình bằng những tương lai huy hoàng rực rỡ, được trở nên những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử hay ngoài xã hội; nhưng khi giật mình tỉnh giấc và phải đương đầu với những hy sinh gian khổ, những mơ ước bị tan biến như bọt biển bị sóng đánh tan tành. Họ quên đi một thực tế là ai cũng phaỉ trải qua những hy sinh gian khổ trước khi đạt được những kết quả tốt đẹp.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra hai thái độ tương phản của nhân loại. Trong Bài Đọc I, con cái Israel thích thú khi nghe các thám tử tường thuật chuyến đi xem xét tình hình Đất Hứa miền Canaan; nhưng khi nghe đến binh lính to lớn và thành trì kiên cố của họ thì họ hết mong Đất Hứa, vì họ sợ phải trả giá bằng gian khổ và chết chóc. Họ bắt đầu toa rập nhau và gào thét điệp khúc “chúng tôi muốn trở về Ai-cập,” để kêu trách Thiên Chúa và ông Moses. Trong Phúc Âm, người đàn bà xứ Canaan muốn xin Chúa Giêsu chữa lành cho con gái bị quỉ ám. Mặc dù bị thử thách nặng nề bởi các môn đệ và bởi Chúa Giêsu, Bà nhất định vượt qua mọi thử thách để kiên trì van xin cho tới khi được. Chúa Giêsu phải ngạc nhiên trước cách biểu lộ niềm tin này, nên đã ban cho Bà điều Bà xin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cho tới bao giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta?
1.1/ Lý do con cái Israel kêu trách Thiên Chúa: Hai mục đích Thiên Chúa muốn làm cho con cái Israel: thứ nhất, Ngài muốn giải phóng con cái Israel khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập; thứ hai, Ngài muốn đưa họ vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với các tổ-phụ của họ.
Để chuẩn bị tinh thần, Đức Chúa phán với ông Moses: “Ngươi hãy sai người đi do thám đất Canaan, đất mà Ta sẽ ban cho con cái Israel. Các ngươi sẽ sai đi mỗi chi tộc một người và tất cả phải là kỳ mục trong dân.” Sau bốn mươi ngày do thám đất, họ trở về và tường thuật những gì mắt thấy tai nghe cho ông Moses và toàn thể dân chúng. Muốn hiểu chi tiết những gì họ tường thuật, xin đọc Sách Dân Số, chương 13 và 14. Một cách tổng quát, con cái Israel mắt sáng rỡ khi nghe đến vùng đất tràn đầy sữa và mật, những chùm nho phải hai người khiêng; nhưng mắt họ tối sầm lại khi nghe đến binh lính to lớn và thành trì kiên cố. Nỗi lo sợ phải hy sinh gian khổ và có thể phải chết thắng vượt ước mơ được định cư trong Đất Hứa, nên toàn thể cộng đồng lớn tiếng kêu la, dân chúng khóc lóc cả đêm ấy. Họ muốn trở về Ai-cập hay ở lại trong sa mạc để chết cách an toàn!
Nghe những tiếng kêu la than khóc, Đức Chúa lại phán với ông Moses và ông Aaron:
“Cho tới bao giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta? Ta đã nghe thấy toàn những lời cằn nhằn, đám con cái Israel này cứ lẩm bẩm chống Ta.”
1.2/ Hậu quả của việc than trách: Chúa truyền cho ông Moses và ông Aaron: “Ngươi hãy nói với chúng: Ta thề – sấm của Đức Chúa – Ta sẽ xử với các ngươi như lời các ngươi kêu thấu tai Ta. Trong sa mạc này, thây các ngươi sẽ ngã gục: trong các ngươi, tất cả những người đã được kiểm tra đăng ký, từ hai mươi tuổi trở lên, mà đã cằn nhằn chống Ta, Theo số ngày các ngươi đã đi do thám đất – bốn mươi ngày – mỗi ngày tính là một năm, các ngươi sẽ phải gánh chịu tội ác của các ngươi bốn mươi năm, và các ngươi sẽ biết Ta trừng phạt những kẻ bất tuân như thế nào.
Ta, Đức Chúa, Ta đã phán; Ta quyết sẽ thi hành như thế cho toàn thể cộng đồng hư đốn này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị tiêu diệt và sẽ chết hết.”
Theo những lời này, con cái Israel sẽ phải lãnh nhận những hậu quả như sau:
(1) Họ phải sống lang thang trong sa mạc 40 năm, mặc dù từ Biển Đỏ, nơi họ xuất hành khỏi Ai-cập chỉ mất khoảng ít ngày tới Đất Hứa. 40 ngày dọ thám trở thành bản án 40 năm lưu đày trong sa mạc; và tất cả những thám tử phản động xúi giục dân làm phản bị giết chết hết, ngoại trừ ông Caleb và ông Joshua, những người không chống lại Thiên Chúa và Moses.
(2) Thế hệ của họ (từ hai mươi tuổi trở lên) sẽ dần dần chết hết trong sa mạc theo như lời họ than trách; mặc dù ông Moses đã hết lòng cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho họ.
(3) Thế hệ con cháu của họ sẽ được vào hưởng Đất Hứa vì chưa chống lại Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
2.1/ Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra khỏi lãnh thổ của Palestine. Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ, thánh Matthew tường thuật: “Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyre và Sidon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Người đàn bà Canaan này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:
(1) Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do-thái khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn có bất cứ liên hệ gì với Dân Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc này.
(2) Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không đáp lại một lời, các môn đệ thưa với Ngài: “Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà xin mãi!” Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn đệ và cho cả Bà: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.”
(3) So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú giải có khuynh hướng làm dịu lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con; nhưng điều chính yếu là con người phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục. Hãy nghe lời Bà đối thoại với Chúa Giêsu:
– Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
– Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
– Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
2.2/ Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn bánh dành cho con cái, nhưng “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Tuy Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại, nhưng Ngài đang huấn luyện các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài muốn chọn dân Do-thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất cả Dân Ngoại.
Vì Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc, nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả lời Bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt tới vinh quang Nước Trời. Nếu chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng thống trị vinh quang với Ngài.
– Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cuộc đời con cái Israel 40 năm trong sa mạc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************