Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Tư Tuần XXXI Mùa Thường Niên Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: Pl 2, 12-18
“Anh em hãy lo cho mình được ơn cứu độ; Thiên Chúa tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, như anh em vẫn luôn luôn vâng lời, không phải trong lúc tôi có mặt mà thôi, nhưng hơn nữa, cả lúc này là lúc tôi vắng mặt, anh em cũng phải kinh hãi run sợ mà lo cho mình được ơn cứu độ. Vì chưng, Thiên Chúa là Đấng tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm theo sở định của Người.
Anh em hãy thi hành mọi việc, đừng kêu ca và nghi ngại, để anh em biến thành những người không có gì đáng chê trách, và trở nên những người con vẹn toàn không ai bắt lỗi được của Thiên Chúa ở giữa một thế hệ hư hốt và gian tà. Giữa những kẻ ấy, anh em hãy chiếu sáng ra như những vì sao trong vũ trụ, hãy tích trữ lời hằng sống, để làm sáng danh tôi trong ngày của Đức Kitô, vì tôi đã không bôn tẩu cách hư luống và đã không uổng công lao nhọc.
Và nếu tôi phải đổ máu làm lễ vật tiến dâng vì đức tin anh em, tôi sẽ vui mừng và hân hoan với tất cả anh em. Và cả anh em nữa, anh em cũng sẽ được vui mừng và hân hoan với tôi. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26, 1. 4. 13-14
A+B=Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? – Đáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. – Đáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! – Đáp.
ALLELUIA: x. Cv 16, 14b
– Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 14, 25-33
“Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: ‘Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi’.
“Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
04/11/2020 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 31 TN
Th. Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô, giám mục
Lc 14,25-33
TRỞ NÊN NGƯỜI MỚI
“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14,26)
Suy niệm: Hai từ “dứt bỏ” gắn liền với những thách đố của Tin Mừng Chúa Giê-su. Khi người thanh niên giàu có xin theo Chúa, Ngài yêu cầu anh bán hết của cải cho người nghèo rồi hãy theo. Với các môn đệ, Chúa đòi hỏi các ông phải từ bỏ cả những người thân thiết nhất, bỏ cả mạng sống, vác lấy thập giá mới đủ điều kiện làm môn đệ Ngài. “Từ bỏ” như thế không phải là đi vào ngõ cụt huỷ diệt mà mở ra một chiều kích hy vọng hướng về tương lai, là chết đi để tái sinh thành người mới trong Nước Trời, như Chúa nói với ông Ni-cô-đê-mô:
Không thể “vào Nước Thiên Chúa” nếu không “sinh ra một lần nữa” “bởi Nước và Thần Khí” (Ga 3,3.5).
Mời Bạn: Lời mời gọi từ bỏ là để biến đổi chúng ta trở thành người mới với quả tim mới, sức sống mới, trong “trời mới, đất mới”. Một tương quan mới thân tình sâu đậm được hình thành trong sự hiệp thông yêu thương với Đức Ki-tô, Đấng đã “từ bỏ” địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để mặc lấy thân phận con người, chịu chết trên thập giá mà cứu chuộc chúng ta. Nếu chúng ta tìm một Giê-su không thập giá, chúng ta sẽ phải vác thập giá một mình mà không có Giê-su. Cho nên, nếu chúng ta từ bỏ mọi sự theo Ngài, chúng ta không phải vác thập giá một mình nữa mà đã có Ngài “vác chung”.
Sống Lời Chúa: Thập giá trong đời bạn sẽ biến thành thánh giá để thông ơn cứu độ Chúa Ki-tô khi bạn vác lấy thập giá đó bằng cung cách của Ngài, đó là vâng phục, tự hạ và hiến thân.
Cầu nguyện: Xin cho con biết “chết đi” để vui sống muôn đời. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc…
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống…
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ “là mẹ hơn” qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cần từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG MƯỜI MỘT
Lòng Thương Xót Của Chúa Cha
Trong lời nguyện hiến tế của Ngài, Chúa Giêsu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ cho khỏi ác thần (Ga 17,15). Như vậy, lời nguyện hiến tế vừa ca ngợi sự tốt lành của hiệp nhất, vừa là lời khẩn xin tha thiết để mọi sự dữ chống lại hiệp nhất đều có thể được thắng vượt. Do đó, đây cũng là một lời nguyện hoà giải. Sự hoà giải này diễn ra ở những cấp độ khác nhau: nơi chính bản thân mỗi người, giữa các cá nhân, giữa các Kitô hữu, giữa người Kitô hữu và những người ngoài Kitô giáo, giữa các dân tộc và các quốc gia, giữa các khu vực đã phát triển và các khu vực kém phát triển trên thế giới.
Hoà giải là một kinh nghiệm sâu xa thuộc lãnh vực tâm linh con người. Trong hình thức cao nhất của nó, nó là hình ảnh người Cha nhân lành mở rộng vòng tay ôm lấy đứa con bất trị. Anh ta là nạn nhân của cám dỗ muốn xây dựng một thế giới hoàn toàn bởi sức riêng mình, bất cần Cha. Cái trống rỗng của sự chọn lựa ấy, nỗi cô đơn nhức nhối ấy, và hậu quả là phẩm giá của anh cũng chẳng còn … Tất cả đã gây ra những vết thương cần phải được chữa trị tận căn. Anh cần phải quay về và kinh nghiệm lại lòng thương xót của Cha. Vâng, sự hoà giải phải cắm rễ sâu trong cuộc sống chúng ta: hoà giải với Thiên Chúa, với chính mình, với nhau, với các cộng đoàn Giáo Hội khác, bắt đầu bằng một sự biến đổi sâu xa trong tâm hồn mình.
Hoà giải còn mang một chiều kích xã hội nữa. Nó vượt qua những rào cản ngăn cách các tầng lớp xã hội và vượt qua sự xung khắc giữa các quốc gia. Nó tiêu diệt các hình thức kỳ thị đầy bất công. Trên hết, nó ưu tiên tôn trọng phẩm giá độc đáo của mỗi người và tích cực bảo vệ các quyền của con người ở bất cứ nơi đâu mà các quyền ấy bị đe doạ.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/11
Thánh Carôlô Borrôêô, giám mục, tiến sĩ
Pl 2,12-18; Lc 14, 25-33.
LỜI SUY NIỆM: “Ai không vác thập giá mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”
Chúa Giêsu phán những lời này, khi Người đang trên đường lên Giêrusalem, để đến với thập giá. Trong khi đó, đám đông nghĩ Người đi lên Giêrusalem để nhận lãnh vinh quang. Lập vương quốc mới. Người muốn cho đám đông ý thức để nhận định và chọn lựa trong việc đi theo Người, Người đang đi vào con đường thập giá, là tận hiến chính mình cho Thiên Chúa và đem lại ơn Cứu Độ cho con người. Để những ai đang muốn đi theo Người không phải thất vọng, khi không đạt được sự vinh quang nơi trần thế này. Đi theo Người là tận hiến đời mình cho Thiên Chúa để phục vụ tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn học biết về thập giá, luôn ghi Dấu Thánh Giá trên mình, trước mọi lời cầu xin và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh sống của mình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-11: Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ
Giám Mục (1538 – 1584)
Xuất thân từ dòng họ quí phái Lombardo, thánh Carôlô Borrômêô sinh tại Arôna ngày 2 tháng 10 năm 1538, là con thứ trong gia đình, tuổi trẻ đạo đức đã sớm định hứơng cuộc đời Ngài để phục vụ Giáo hội, Ngài đạt bằng tiến sĩ luật ở Paris năm 1559, nhưng tháng giêng năm sau đã triệu vời về Roma. Ở đó Ngài được đặt ngay làm Hồng Y với những trách và cao trọng trong Giáo hội gồm cả chức vụ Tổng Giám mục Milan, và dù còn trẻ cũng đã được trao cho trách nhiệm làm quốc vụ khanh tòa thánh.
Trong quyền hạn này, Ngài kiểm soát mọi giao dịch chính thức của Đức Giáo hoàng, bao gồm nhiều cuộc đám phán khó khăn liên quan đến việc hoàn thành công đồng Tridentinô từ năm 1560-1564. Công đồng kết thúc, Ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565 Ngài mới được đức giáo hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, Ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu Ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa đấng kế vị là Đức Giáo hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.
Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân công đồng Tridentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành giám mục “kiểu mới” của công đồng Tridentinô, Ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác Ngài đã chuyển các sắc lệnh của cộng đồng ra hành động trong Giáo hội công giáo, Ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị giáo tỉnh và mười một hội nghị giáo nhận.
Ngài kiên trì viếng thăm toàn giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của Ngài đã là ảnh hưởng quyết định của Ngài, Ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, Ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính Ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ Ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là Ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi Ngài đang cầu nguyện năm 1569.
Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.
Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính Ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của Ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của Ngài, Ngài đã hiến mình làm hiến tế, bô thí tất cả những gì Ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính Ngài cũng ngủ trên sàn nhà, Ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, Ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định.
Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức tổng giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, Ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng: dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên Ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.
Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ Ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy Ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, Ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, Ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của Ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho Ngài.
Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói: “Kìa cơn mê của giám mục thánh Modène”. Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng Ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, Ngài cười khi người ta khuyên Ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, Ngài lịm vào trong sự tôn thờ.
Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làmcho cả Milan đau đớn. Sủ gia viết truyện đời Ngài nói: “Đêm ấy, ít có ai ngủ được”. Đức Phaolô V đã phong thánh cho Ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
04 Tháng Mười Một
Quo Vadis, Domine?
Ðêm trước ngày vào cơ mật viện để bầu Giáo Hoàng, Hồng Y Karol Wojtyla đã chuẩn bị hành lý để trở về Krakow, tổng giáo phận của ngài. Thế nhưng, ngài đã không trở lại Krakow nữa. Ngày thứ hai, 16 tháng 10 năm 1978, vị Hồng Y 58 tuổi này đã được bầu làm Giáo Hoàng và lấy tên là Gioan Phaolô II. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Ba Lan, là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Italia kể từ 450 năm qua, và tính từ 150 năm trở lại, thì ngài là vị Giáo Hoàng trẻ nhất.
Trong khi chuẩn bị cho bài giảng Chúa Nhật đầu tiên kể từ lúc được bầu làm Giáo Hoàng, Ðức Gioan Phaolô II đã nghĩ đến tác giả của quyển tiểu thuyết giả sử nổi tiếng “Quo vadis, Domine?” là ông Henryk Sienkiewicz, một văn sĩ và đồng thời cũng là một nhà ái quốc Ba Lan. Qua tác phẩm này, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã so sánh tâm tình của mình với vị Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô như được ghi lại trong tác phẩm “Quo vadis,Domine?”, “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Theo tác giả quyển tiểu thuyết giả sử, thì có lẽ thánh Phêrô thích ở lại quanh quẩn bên bờ hồ Genezareth hơn là đến giữa trung tâm của đế quốc La Mã để gặp không biết bao nhiêu chống đối và bách hại. Giữa lúc vị Giáo Hoàng đầu tiên toan tình trốn khỏi La Mã để trở về quê hương mình, thì ngài gặp lại Chúa Giêsu hiện ra đang đi ngược chiều với ngài. Ngạc nhiên về sự xuất hiện của Chúa, thánh Phêrô đã hỏi: “Quo vadis, Domine?” nghĩa là “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Và Chúa Giêsu đã trả lời như sau: “Ta đang đi đến La Mã để chịu đóng đinh một lần nữa”. Hiểu được ý Chúa, Phêrô đã quay trở lại La Mã và ngài ở lại đó cho đến khi chịu đóng đinh.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Carolô Borremêô và mừng bổn mạng một cách đặc biệt của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Mãi mãi tên Carolô gắn liền với tên tuổi và vận mệnh của Ðức Thánh Cha. Hơn ai hết, ngài phải là người kính nhớ và ghi ơn vị thánh bổn mạng nhiều nhất.
Tên thánh được đặt cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa đánh dấu sự đổi đời quan trọng của chúng ta. Từ cái chết trong tội lỗi, chúng ta được tái sinh trong sự sống của Chúa. Hướng đi của chúng ta phải là hướng đi tới Chúa, không thể là bước thụt lùi.
Mang lấy tên thánh Carolô, Wojtyla đã quyết tâm hướng cuộc đời của mình tiến tới trong phục vụ và hy sinh như như chính thánh giám mục Carolô Borremêô. Và khi chọn lấy danh hiệu mới là Gioan Phaolô, vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quyết tâm tiến tới trên con đường mà hai vị tiền nhiệm của mình đã vạch ra… Là người Kitô, chúng ta cũng luôn được mời gọi tiến tới không ngừng trên đường theo chân Chúa Giêsu. Tên thánh mà chúng ta mang lấy trong ngày Rửa Tội, danh hiệu Kitô mà chúng ta được đặt cho phải luôn luôn là một nhắc nhở chúng ta về con đường tiến lên ấy. Chắc chắn con đường ấy không là một con đường rộng thênh thang. Sự tiến lên ấy không là một đà tiến dễ dàng. Phêrô đã quay trở lại La Mã để chịu đóng đinh… Thập giá có lẽ đang chờ đợi chúng ta, chúng ta hãy hiên ngang tiến bước vì đó chính là hướng đi của tất cả những ai mang danh hiệu Kitô.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 31 TN2
Bài đọc: Phil 2:12-18; Lk 14:25-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải suy nghĩ tính tóan trước khi làm quyết định theo Chúa.
Con người có khuynh hướng muốn bắt cá hai tay: vừa muốn những sự sung sướng thế gian vừa muốn đạt tới Nước Trời. Có một câu truyện về một em bé, khi được hỏi: Em muốn làm gì khi lớn lên? Em bé phân vân không biết trả lời làm sao. Khi được gạn hỏi kỹ hơn, em bé trả lời em vừa muốn làm thâu ngân để giữ tiền vừa muốn làm chị nữ tu để theo Chúa. Thái độ của em bé cũng là thái độ của nhiều người chúng ta; nhưng điều này đã được Chúa Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố: “Các con không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền tài” (Mt 6:24). Bài đọc I là những lời khuyên thực tế Thánh Phaolô rút ra từ Bài Thánh Ca hôm qua: đi theo Chúa Giêsu là chấp nhận lối sống nên vinh quang của Ngài, lối sống vâng lời tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thẳng thắn đặt điều kiện cho những người muốn đi theo Chúa: phải dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh/chị/em, cả mạng sống mình nữa, và vác thập giá mình. Con người phải cẩn thận suy nghĩ trước khi quyết định theo Ngài, để đừng bỏ dở nửa chừng mà mất cả chì lẫn chài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay nghi ngờ.
1.1/ Tự nguyện vâng phục Thiên Chúa: Giống như Đức Kitô đã hòan tòan tự nguyện vâng phục Thiên Chúa vì biết sự vâng phục sẽ làm trọn vẹn Mầu Nhiệm Cứu Độ; Thánh Phaolô cũng muốn các tín hữu Philipphê có một thái độ tự nguyện vâng phục như vậy. Sự vâng phục đặt nền tảng trên hiểu biết là nó sẽ giúp người vâng phục đạt tới ơn cứu độ; chứ không vì bất cứ lý do nào khác. Đó là lý do tại sao ngài khuyên: “Anh em thân mến, anh em là những người luôn luôn vâng phục không những khi tôi có mặt, mà nhất là bây giờ, khi tôi vắng mặt, anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ.”
Hai ngày trước đây chúng ta đã bàn đến thần học về thân thể của Thánh Phaolô khi bắt đầu chương thứ hai này. Vì được liên kết vào một thân thể và Đức Kitô là Đầu, nên các chi thể đều được Đức Kitô hướng dẫn và cùng thấm nhuần một tình yêu mà Ngài đã nhận được từ Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô có thể nói: “Vì chính Thiên Chúa tác động đến lòng muốn cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người.” Vì thế, sau khi đã hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ, các tín hữu hãy noi gương Đức Kitô, vâng lời làm mọi sự theo Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, đừng than phiền hay nghi ngờ về Kế Họach của Ngài.
1.2/ Can đảm từ chối lối sống theo thế gian: Thánh Phaolô biết ngài không thể luôn ở với các tín hữu Philipphê để bảo vệ họ tránh khỏi những cám dỗ của thế gian, nên ngài cố gắng dạy dỗ để làm cho đức tin của họ thêm vững chắc. Ngài dạy họ 3 điều ở đây:
– Làm gương sáng giữa thế gian: Nếu họ để Đức Kitô là trọng tâm của cuộc sống và hành động theo những gì Ngài hướng dẫn, họ sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở thành những người con vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Một lối sống như thế giữa thế gian sẽ chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, và làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa.
– Sống theo một mục đích: Thánh Phaolô dạy cho các tín hữu của ngài biết rõ họ sống ở đời này để làm gì. Ngài đã vất vả lao nhọc để rao giảng Tin Mừng cho họ cũng là vì mục đích đó: làm sao cho Tin Mừng mang lại ơn cứu độ cho mọi người.
– Chấp nhận mọi hy sinh gian khổ: Vì mục đích cứu độ mà ngài cũng như các tín hữu sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ để Tin Mừng được lan rộng khắp nơi. Ngài chia sẻ tâm tình với các tín hữu: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em.”
2/ Phúc Âm: Giá phải trả của những người đi theo Chúa
Theo trình thuật của Luca, Chúa Giêsu đang trên đường đi lên Jerusalem. Nhiều người hy vọng Ngài sẽ dùng sức mạnh chống lại đế quốc Rôma và khôi phục lại vương quốc của Thiên Chúa, lên đi theo để ủng hộ. Chúa Giêsu biết những gì họ suy nghĩ, đồng thời cũng biết những gì sắp xảy ra cho Ngài tại Jerusalem, nên Ngài quay lại và đưa ra 3 kiện cho họ:
2.1/ Điều kiện đi theo Chúa: Có thể nói 3 điều kiện này bao gồm tất cả những gì con người sở hữu:
(1) Phải từ bỏ người thân: “Ai đến với tôi mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thì không thể làm môn đệ tôi được.” Động từ Hy-Lạp dùng ở đây là mise,w có nghĩa là ghét, khinh thường, không quan tâm, hay không để ý tới. Trình thuật của Matthêu dùng chữ cẩn thận hơn: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10:37). Chắc chắn Chúa không dạy chúng ta phải ghét người thân như ghét kẻ thù, mà còn dạy chúng ta phải yêu thương họ nữa. Thánh Luca rất chú trọng đến tình yêu vì ngài là một y sĩ, và “lương y như từ mẫu;” nhưng có lẽ Ngài hiểu ở đây giống như Matthêu: Người môn đệ không được đặt các người thân lên trên Thiên Chúa; và khi phải chọn giữa họ và Thiên Chúa, con người phải chọn Thiên Chúa.
(2) Phải từ bỏ mạng sống mình: Như Chúa Kitô đã sẵn hy sinh mạng sống cho con người, các môn đệ cũng đòi hỏi phải có sự hy sinh như thế.
(3) Phải vác thập giá mình: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” Thập giá Chúa nói tới ở đây là tất cả trái ý, gian khổ, bất công … mà người môn đệ sẽ phải đương đầu với khi rao giảng Tin Mừng.
2.2/ Để dẫn chứng sự cần thiết của việc phải suy xét cẩn thận trước khi quyết định đi theo Chúa, ngài dùng 2 ví dụ cụ thể:
(1) Việc xây tháp: Tiền là yếu tố quyết định cho các công trình xây dựng, và phải có đủ hay dư tiền trước khi bắt đầu xây. Nếu đang xây nửa chừng mà hết tiền, nhà thầu sẽ không tiếp tục làm việc nữa; và dự án bị bỏ dở nửa chừng, và mọi người nhìn vào sẽ chê cười.
(2) Việc giao chiến: Thăng bằng lực lượng là một trong những yếu tố quyết định cho việc giao chiến; vì thế, các nhà lãnh đạo thường gởi thám tử đi quan sát đối phương trước để lượng định tình hình, và so sánh với lực lượng mình có. Nếu thấy có cơ hội thắng thế thì mời giao chiến; nếu không sẽ phải gọi quân tiếp viện hoặc cầu hòa.
Cũng vậy, Chúa Giêsu đòi các người đi theo phải suy xét cẩn thận 3 điều kiện của Chúa, và lượng định sức mình xem có thể đáp ứng được không. Nếu không đáp ứng được, không thể làm môn đệ của Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta không thể “bắt cá hai tay,” vừa muốn theo Chúa vừa muốn hưởng thụ tất cả những gì thế gian dâng tặng.
– Phải cẩn thận suy xét ba điều kiện Chúa đòi hỏi và tự vấn sức mình xem có theo được không. Một khi đã quyết định, nhất quyết theo tới cùng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************