Ngày thứ tư (06-04-2022) – Trang suy niệm

05/04/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư Tuần V Mùa Chay Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: Đn 3, 14-20. 91-92. 95

“Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người”.

Trích sách Tiên tri Đaniel.

Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: “Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta”. Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: “Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên”.

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: “Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?” Các ông trả lời với vua rằng: “Tâu lạy vua, thật có”. Vua nói: “Đây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa”. Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: “Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Đấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Đn 3, 52. 53. 54. 55. 56

Đáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b). 

Xướng:

1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. – Đáp.

2)Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.

3)Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.

4)Chúc tụng Chúa, Đấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.

5)Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.

CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 11, 25a và 26

Chúa phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời”. 

PHÚC ÂM: Ga 8, 31-42

“Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi sẽ được tự do’?”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là Abraham!” Chúa Giêsu nói: “Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!” Họ lại nói: “Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu nói: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

06/04/2022 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 5 MC

Ga 8,31-42

ĐỪNG CỨNG LÒNG

Đức Giê-su nói với người Do Thái: “Các ông lại tìm giết tôi, người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm. Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm.”  (Lc 4,2)

Suy niệm: Người ta thường nói: “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”; ngược lại, cũng có câu “cha dạy học, con đốt sách”! Trong khi thi hành sứ vụ rao giảng, Đức Giê-su đã phải đối mặt với những người Do Thái cứng lòng trước sứ điệp Tin Mừng. Họ ỷ mình là con dòng cháu giống của tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng lại “đốt sách” của tổ phụ mình: Vì thành kiến, óc bảo thủ, vì ham hố lợi lộc, vun quén ảnh hưởng phe nhóm, họ chối từ sứ điệp của Chúa Giê-su, và mặt khác, họ “làm điều mà Áp-ra-ham đã không làm” đó là tìm giết Đức Giê-su.

Mời Bạn: Như nhắc lại lời Chúa Giê-su, phó tế Tê-pha-nô đã gọi giới lãnh đạo Do Thái thời đó là những người “cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, luôn chống lại Thánh Thần” giống như cha ông họ (x. Cv 7,51). Đó cũng là lời nhắc nhở bạn và tôi: “Ngày hôm nay, nếu các bạn nghe tiếng Chúa, thì đừng cứng lòng nữa” (x. Tv 94,8). Trái lại, hãy từ bỏ cái nhìn thành kiến, óc bè phái; đừng chỉ là Ki-tô hữu trên giấy tờ, con số rồi dựa vào đó để tự hào, nhưng hãy là người con biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành (x. Lc 8,21).

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày, bạn suy niệm một câu Lời Chúa và có một quyết tâm thực hành cụ thể.

Cầu nguyện: Lạy Chúa xin ban ơn cho chúng con được vững tin, để cuộc đời chúng con luôn can trường mạnh mẽ trước những thử thách và sóng gió cuộc đời. Xin Chúa luôn ở cùng chúng con.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Những dân tộc bị đô hộ nhiều năm mới hiểu được giá trị của giải phóng.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.

Những người Do-thái đang tranh luận gay gắt với Đức Giêsu.
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài :
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).

Những người Do-thái cố chấp, chỉ tìm cách giết Đức Giêsu (cc. 37, 40).
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như Ngài.

“Giả như các ông là con cái ông Abraham,
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.

Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng đã tuyên xưng
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

6 THÁNG TƯ

Lớn Lên Trong

Sự Mật Thiết Với Đức Kitô

Chúng ta cũng được mời gọi tin vào Đức Kitô qua lời rao giảng của Giáo Hội. Trong tư cách là thân thể của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi loan truyền cái chết cứu độ, cuộc Phục Sinh của Người và sự hiện diện thường xuyên của Người ở giữa chúng ta. Chính Đức Giêsu đã bảo đảm với chúng ta: “Này, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Đức tin không qui chiếu nhiều đến một sự kiện quá khứ cho bằng tuyên bố rằng Chúa hằng sống và đang hiện diện giữa chúng ta. Tiên vàn, nó có nghĩa một mối thân tình gắn bó với Đức Kitô. Chúng ta phải có một sự kết hiệp mật thiết với Người. Đức Kitô phải trở thành ngày càng cắm rễ sâu hơn nơi chúng ta.

Càng lớn lên hơn, chúng ta càng cần tin hơn. Vì thế, mục đích của chúng ta phải là trở nên mật thiết hơn với Đức Kitô và gìn giữ mối thân tình với Người. Rồi, Người sẽ định dạng cuộc sống chúng ta – qua đó, chúng ta sẽ càng kết hiệp với Người nhiều hơn, sẽ hiểu biết Người nhiều hơn, và với tình yêu và lòng trung thành đối với Người, chúng ta sẽ tiến lên trong hành trình của chúng ta.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 06/4

Đn 3, 14-20. 24-25. 28; Ga 8, 31-42.

LỜI SUY NIỆM: “Chúa Giêsu đã nói với những người Do-thái đã tin Người: Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.”

          Chúa Giêsu là chứng nhân sự thật, và Người đang đề cập đến: “Biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ông.” Điều này trong Giáo Huấn xã hội của Giáo Giáo Hội ngày hôm nay cũng luôn mời gọi: “Mọi người có nghĩa vụ đặc biệt là: luôn hướng tới sự thật, tôn trọng sự thật và làm chứng về sự thật một cách có trách nhiệm.” (GH 198).

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con ơn đức tin: “Tin vào Chúa” luôn sống xứng đáng là môn đệ của Chúa và để được trở thành con cái của Thiên Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

06 Tháng Tư

Món Quà Cưới Ðẹp Nhất

Mẹ Têrêxa thuật lại một câu chuyện như sau: “Một hôm kia, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo”.

Ở Calcutta, mọi người đều biết là: mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái truyền giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.

Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?”. Họ trả lời: “Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con”.

Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: “Ở Ấn Ðộ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái”.
Ðể biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: “Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?”. Hai bạn trẻ đó trả lời: “Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào”.

Trong sứ điệp Mùa Chay gửi toàn thể giáo hội, công bố vào ngày 09/02/1988, Ðức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy đặc biệt quan tâm đến tình trạng mỗi ngày có hàng chục ngàn trẻ em trên thế giới bị chết yểu.

Ðức Thánh Cha nói: “Có những trẻ em chét trước khi chào đời. Nhiều em khác chỉ sống một thời gian ngắn vì bệnh tật, vì thiếu dinh dưỡng và nhiều khi thiếu cả tình thương nữa… Các em là nạn nhân của nghèo đói, của những bất công xã hội làm cho gia đình các em không đủ phương tiện cần thiết để nuôi dưỡng con cái”.

Ngoài ra, sứ điệp Mùa Chay của Ðức Thánh Cha còn nhắc lại tình thương đặc biệt của Chúa Giêsu đối với các trẻ em và Ngài mời gọi mọi tín hữu trong Mùa Chay hãy bẻ gãy xiềng xích của tính ích kỷ và tội lỗi, đồng thời thực thi tình liên đới, bằng cách chia sẻ với những người túng thiếu. Hãy cho người nghèo không phải những thứ mình dư thừa, nhưng cả những gì mình cần thiết nữa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư – Tuần V – MC

Bài đọc: Dan 3:14-20, 91-92, 95; Jn 8:31-42.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật giải phóng con người.

Con người thường không muốn người khác vạch ra những điều sai trái của mình, nhất là đối với những người có quyền thế. Nhưng dù sự thật mất lòng nhưng có sức mạnh giải phóng con người. Nhiều người tưởng mình đang sở hữu sự thật, nhưng thực ra họ đang làm nô lệ cho sự giả trá. Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc con người phải tìm ra sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng con người.

Trong Bài Đọc I, Vua Nebuchadnezzar nghĩ các thần do tay mình dựng nên là thần thật nên bắt ba trẻ Do-thái phải sụp lạy chúng khi nhạc khí xướng lên; nếu không sẽ quăng chúng vào lò lửa đang cháy. Ba trẻ Do-thái từ chối vì họ nhất quyết chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Khi chính mắt nhìn thấy uy quyền của Thiên Chúa từ lò lửa, chính vua Nebuchadnezzar đã khiêm nhường thú nhận: chỉ có Thiên Chúa của ba trẻ Do-thái thờ là Thiên Chúa thật. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn chỉ cho người Do-thái thấy họ thực sự không phải là con cái của Abraham, vì họ không làm những gì tổ-phụ Abraham đã làm: tin Thiên Chúa và đón tiếp các ngôn sứ Ngài gởi tới. Họ không tin những gì Ngài nói và đang tìm cách giết Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ba trẻ Do-thái làm chứng cho sự thật.

1.1/ Ba trẻ Do-thái từ chối không thờ thần nào khác ngòai Thiên Chúa: Vua Nebuchadnezzar đe dọa ba trẻ: Này Shadrach, Meshach, và Abednego, nếu các ngươi không phụng sự các thần của ta và không chịu thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, để xem có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?”

Ba trẻ Do-thái can đảm nói với Vua: “Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này. Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!” Vua tức giận, lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần. Rồi vua ra lệnh cho những người lực lưỡng nhất trong quân đội của vua trói ba trẻ và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng phực.

1.2/ Vua Nebuchadnezzar nhận ra Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego.

(1) Vua nhận thấy sự khác lạ xảy ra trong lò lửa: Vua Nebuchadnezzar ngạc nhiên đứng bật dậy và cất tiếng nói với các quan cố vấn: “Chẳng phải chúng ta đã quăng ba người bị trói vào lửa sao?” Họ đáp rằng: “Tâu đức vua, đúng thế!” Vua nói: “Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống như con của thần minh.”

(2) Vua tin vào Thiên Chúa của ba trẻ: Khi nhận ra Thiên Chúa đã gởi thiên thần đến cởi trói cho ba trẻ để họ đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, Vua Nebuchadnezzar cất tiếng nói: “Chúc tụng Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ.”

2/ Phúc Âm: Sự thật sẽ giải phóng các ông.

2.1/ Chúa Giêsu là sự thật của Thiên Chúa.

(1) Sự thật giải phóng: Đức Giêsu nói với những người Do-thái đã tin Người: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ phải tin những lời Ngài nói là sự thật; và những lời này sẽ giải phóng họ khỏi những gì sai trái. Lúc đó họ sẽ có tự do đích thực, vì họ đã biết sự thật. Vì thế, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa: ở lại trong lời Chúa Giêsu, trở thành môn đệ, sự thật, và tự do đích thực.

Những người Do-thái không hiểu lời Chúa Giêsu nói, nhưng tự ái vì Ngài ám chỉ họ làm nô lệ. Họ đáp: “Chúng tôi là giòng dõi ông Abraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” Thực sự, người Do-thái đã từng làm nô lệ cho Ai-cập, Assyria, Babylon, và Rome; nhưng ý họ muốn nói: họ thuộc giòng dõi Abraham, dân của Thiên Chúa.

(2) Chúa Giêsu giải phóng con người khỏi tội: Điều Chúa Giêsu muốn nói là họ đang làm nô lệ cho tội: hễ ai phạm tội là làm nô lệ cho tội. Có một sự khác biệt giữa con cái và nô lệ: con cái được ở trong nhà luôn mãi, nô lệ không được như vậy vì có thể bị bán và tống cổ bất cứ lúc nào. Chúa Giêsu muốn cảnh cáo người Do-thái: các ông phải coi chừng, các ông hãnh diện mình là con cái của Abraham; nhưng nếu các ông phạm tội, các ông trở thành nô lệ, và có thể bị tống cổ ra ngòai.

Nếu họ tin vào Chúa Giêsu, họ sẽ được giải phóng khỏi tội, và họ mới thực sự được tự do; nhưng người Do-thái chẳng những không tin vào lời Chúa Giêsu, lại còn tìm cách giết Ngài. Chúa Giêsu phân biệt Cha của Ngài và cha của người Do-thái. Họ hãnh diện tuyên xưng: Cha chúng tôi là Abraham.

2.2/ Tổ-phụ Abraham tin vào Thiên Chúa: Chúa Giêsu không tin lời họ nói; vì nếu họ là con cháu Abraham, họ có cùng Cha với Ngài vì Abraham tin vào Thiên Chúa. Ngài muốn nói với họ, đức tin không phải chỉ tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải chứng tỏ bằng việc làm: “Giả như các ông là con cái ông Abraham, hẳn các ông phải làm những việc ông Abraham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Abraham đã không làm. Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm.”

Abraham đón tiếp các sứ giả của Thiên Chúa (Gen 18:1-8), chứ không tìm cách giết họ như người Do-thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu. Nếu các ông tìm cách giết người được Thiên Chúa sai đến, các ông không phải là con cái Thiên Chúa, cũng chẳng phải là con cái của tổ-phụ Abraham.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải học cho biết sự thật bằng bất cứ cách nào, vì chỉ có sự thật mới giải phóng và cho chúng ta sự tự do đích thực.

– Bao lâu chúng ta còn phạm tội là làm nô lệ cho tội. Chỉ có Đức Kitô mới có thể giải phóng chúng ta khỏi làm nô lệ cho tội. Chúng ta phải tin và làm những gì Ngài dạy.

– Đức tin không chỉ là những gì chúng ta hãnh diện tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Chúng ta không được cứu bằng chỉ tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải thực hành những gì Chúa dạy và phải can đảm làm chứng cho Ngài bằng hành động.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************