Ủy ban Giáo dân – Tháng 01/2025: Bài 2 – Loan báo Tin Mừng: Một hành trình gặp gỡ chia sẻ niềm vui

20/01/2025

Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

Ban Nghiên Huấn

THƯỜNG HUẤN GIÁO DÂN THÁNG 01/2025

Chủ đề: Nguồn cội và sức năng động của sứ mạng loan báo Tin mừng

BÀI 2 – LOAN BÁO TIN MỪNG: MỘT HÀNH TRÌNH GẶP GỠ CHIA SẺ NIỀM VUI

Việc làm chứng cho Chúa ở giữa đời trước tiên chính là trao ban niềm vui, một niềm vui được phát sinh từ cuộc gặp gỡ cách cá vị với Chúa Kitô. Thật vậy, trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, Đức Phanxicô nói đến niềm vui mà Tin Mừng mang lại cho người tín hữu, niềm vui được nảy sinh từ cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, bởi chính trong cuộc gặp gỡ này chúng ta sẽ được Người trao ban cho sứ điệp, mà “sứ điệp của Người là một nguồn vui: “Thầy nói với các con những điều này để niềm vui của Thầy ở trong các con và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15:11). Niềm vui Kitô của chúng ta phát ra từ nguồn mạch trái tim tràn đầy của Người. Người hứa với các môn đệ: “Các con sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của các con sẽ biến thành niềm vui” (Ga 16:20)” (EG, số 5).

Người Kitô hữu là người tràn đầy niềm vui, vì qua phép Rửa họ đã được dẫn đưa đến gặp gỡ với Chúa Giêsu, họ đã “để cho mình được Người cứu độ, được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi buồn rầu, trống rỗng nội tâm và không còn bị cô lập” (EG, số 1). Nói như Đức Phanxicô : “Điều tốt lành luôn luôn có khuynh hướng lan truyền”, vì được đổ tràn niềm vui cứu độ, người tín hữu sẽ không giữ riêng cho mình, nhưng họ hân hoan sẻ chia niềm vui đó, để người khác cũng được dự phần vào niềm vui đó. Thật vậy “Mỗi kinh nghiệm đích thực về chân lý và sự thiện mỹ là tự nó tìm cách lan rộng, và mọi người trải qua một cuộc giải phóng sâu xa trở nên nhạy cảm hơn với những nhu cầu của người khác. Khi người ta truyền thông nó, sự thiện bén rễ và phát triển. Cho nên, những ai muốn sống cách xứng đáng và trọn vẹn phải nhận ra những người khác và tìm kiếm sự tốt lành cho họ.” (EG số 9). Như vậy, niềm vui Tin Mừng chỉ đạt được ý nghĩa đích thực của nó, khi niềm vui này được thông ban cho người khác.

1. Niềm vui Tin Mừng là quà tặng của Thiên Chúa tình yêu

Bất hạnh của một con người đến từ sự cô đơn và bị lãng quên, không có được một mối giây tương giao nào với người khác. Nhà văn Văn Cao đã mượn nhân vật Chí Phèo để bày tỏ sự kinh hoàng của nỗi cô đơn: “Cô đơn, cái này đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau”. Bởi cô đơn vắng bóng tình yêu, nguyên lý của sự sống, nó làm cho con người trở nên khô cằn trong cuộc sống, mang lại cho người ta nỗi sợ hãi và tuyệt vọng. Tác giả Thánh vịnh cũng đã cảm nghiệm được sự cùng khốn của nỗi cô đơn: “Lạy Chúa, sao Chúa nỡ đứng xa, ngày khốn quẫn, sao Ngài đành ẩn mặt? (TV 9)”. Tác giả sách Sáng Thế cũng đã cho biết rằng, đối với Thiên Chúa cô đơn là một bất hạnh, nên Ngài đã nói: “Con người ở một mình không tốt” (St 2, 18), Ngài đã tạo dựng Eva cho Adam, có nghĩa là con người chỉ có hạnh phúc khi con người thể hiện mối tương giao hiệp thông với nhau, vì chỉ có trong mối tương giao này con người thực sự nhận ra rằng, cuộc sống chỉ đạt tới ý nghĩa của nó khi biết mình yêu thương và được yêu thương. Mối tương giao nay làm cho con người nhận ra được chính mình: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23).

Tuy nhiên, mối tương giao sẽ không thể có được nếu trước tiên không được nối kết với Thiên Chúa. Thế nhưng, mối tương giao này gãy đổ khi con người không muốn ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa, quay lưng chống lại Thiên Chúa, và hậu quả của sự tách rời này là nỗi khổ đau con người phải gánh chịu. có nghĩa là con người đối diện với một thực tại mà triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã mô tả trong tác phẩm “Bức tường”, một thực tại cô đơn, nó như một bức tường ngăn cách giữa hai con người được gọi người tình của nhau, ngồi cạnh bên nhau đó, nói chuyện với nhau đó, nhưng chẳng gặp được nhau.[1] Vâng, kể từ khi bị loại trừ khỏi mối tương giao với Thiên Chúa, con người lầm lũi cô đơn giữa chợ đời, mang nặng nỗi sợ hãi: “Ðây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con” (St 4, 14).

Vì Thiên Chúa là Tình yêu, nên Ngài đâu nỡ đứng nhìn con người bị nỗi khổ đau hành hạ, Ngài quyết đưa con người ra khỏi nỗi cô đơn, bằng cách thiết lập lại mối tương giao với con người qua việc Ngài mạc khải chính mình cho con người và tỏ cho họ biết thiên ý nhiệm mầu là muốn cứu chuộc con người khỏi sự hư vong. Thật vậy, “Thiên Chúa vô hình, trong tình yêu thương chan hòa, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu và đến nói chuyện với họ, để mời gọi và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài”[2]. Việc mạc khải này đạt tới điểm sung mãn của nó qua Đức Giêsu Kitô, tác giả thơ Do Thái đã trình bày ngắn gọn về Thiên Chúa đã hành động để đưa con người về với cội nguồn hạnh phúc: “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1-2).

Như vậy, việc Ngôi Lời Nhập Thể làm người là món quà vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho con người, Thánh Gioan đã minh định: “Thiên Chúa đã yêu mến thế gian, đến nỗi đã ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Người thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” (Ga 3,16). Sự nhập thể của Ngôi Lời chính là cách thế Thiên Chúa ngỏ lời yêu thương với con người một cách cụ thể, sống động. Đức Bênêđictô XVI đã xác quyết: Qua Mầu nhiệm Nhập thể “Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta như một Mầu nhiệm tình yêu vô tận, trong đó Chúa Cha từ thủa đời đời diễn đạt Lời của Ngài trong Chúa Thánh Thần. Bởi thế, Ngôi Lời, Đáng từ lúc khởi đầu vẫn hướng về Thiên Chúa và là Thiên Chúa, đã mạc khải chính Thiên Chúa cho chúng ta trong tương quan trao đổi tình yêu giữa các Ngôi vị Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta dự phần vào tương quan tình yêu đó”[3].

Chính khi mời gọi chúng ta dự phần vào mối tương quan tình yêu Ngôi Vị của Ngài, thì cũng có nghĩ là Thiên Chúa chính thức phá đổ bức tường ngăn cách giữa chúng ta vời Ngài, phá vỡ tình trạng cô đơn của chúng ta, để dẫn đưa chúng ta vào một cuộc đối thoại tình yêu. Và qua cuộc đối thoại này, “chúng ta được mời gọi hiệp thông với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau”[4], nhờ đó chúng ta được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi tình yêu. Được thông dự như thế quả thật là một niềm vui viên mãn (x. 1 Ga 1, 4).

2. Niềm vui khởi đi từ cuộc gặp gỡ với Tin Mừng

Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nhấn mạnh đến việc người tín hữu Kitô đừng bao giờ quên, đó là hãy biểu lộ niềm vui mà mình đang được ban tặng: đó chính là niềm vui được gặp gỡ với Tin Mừng. Trong bài giảng ngày 22-5-2014 tại nguyện đường Santa Marta, Đức Giáo Hoàng đã nói: Một tín hữu Kitô chân chính phải là một người luôn hân hoan vui mừng, ngay cả lúc đau khổ và hoạn nạn, “niềm vui như dấu chỉ của một tín hữu Kitô. Một tín hữu Kitô mà không có niềm vui không còn là tín hữu Kitô hay chỉ là một tín hữu Kitô bệnh hoạn. Người đó không có được một cơ thể tâm linh khỏe mạnh! Một Kitô hữu khỏe mạnh là một tín hữu Kitô vui mừng, tràn ngập niềm vui. Một lần nọ, tôi nói rằng có những tín hữu Kitô với khuôn mặt như bị táo bón kinh niên!. … Lúc nào cũng nhăn nhó, khó chịu! Thật là tệ! Đây không phải là tín hữu Kitô chính hiệu. Một tín hữu Kitô mà không có niềm vui không phải là tín hữu Kitô. Niềm vui như dấu ấn của một tín hữu Kitô, ngay cả trong đau đớn, thử thách, thậm chí bắt bớ”[5].

Niềm vui là khao khát của con người, bởi thế con người luôn nỗ lực đi tìm cho mình niềm vui của cuộc sống, nhưng hầu như mọi nỗ lực của con người đều thất bại. Thất vọng trong con đường tìm kiếm niềm vui thật, Jean Paul Sartre trong tác phẩm “Buồn nôn” (La Nausée) đã chua cay coi cuộc đời này chẳng có ý nghĩa gì cả, tất cả chỉ là hư vô trống rỗng, để rồi ông đưa ra một cái nhìn đầy bi quan: Địa ngục, chính là tha nhân (L’Enfer, c’est les Autres). Sống trong xã hội văn minh hôm nay, con người mang nặng nhiều nỗi lo âu và muộn phiền, và niềm vui hình như đang dần xa lánh khỏi cuộc sống. Vẫn còn tiếng cười đó, nhưng âm vang của nó sao nghe thấy lạnh lẽo tình người, vẫn còn đó những nụ cười sao nhìn thấy chất chứa đầy mưu toan, những trang tin trên báo mạng đầy dẫy các câu chuyện đau thương không thể tin nổi: bạn hữu đâm nhau tại một đám cưới, vợ chồng lập mưu giết lẫn nhau, cha mẹ hạ sát con ngay trong vòng tay, hoặc hai kẻ yêu nhau hạ sát lẫn nhau sau khi thỏa mãn thú tính…

Tuy nhiên, tâm tình của người Kitô hữu, cho dẫu đối diện với bất cứ một thách đố nào trong cuộc sống, vẫn luôn được mời gọi: “Hãy vui lên” (Pl 4,4). Vâng, niềm vui được kêu gọi tỏ bày không là niềm vui được dệt lên từ tình cảm chóng qua, nhưng là niềm vui bắt nguồn từ một cuộc gặp gỡ. Khởi đầu Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Phanxicô đã viết: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho mình được Người cứu độ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn rầu, trống rỗng nội tâm và cô lập. Với Chúa Giêsu Kitô niềm vui được sinh ra và luôn luôn tái sinh” (số 1). Đức Phanxicô đã khẳng định rằng, chính cuộc gặp gỡ cá vị của mỗi người với Chúa Giêsu, tâm điểm của mọi đời sống Kitô hữu, làm nảy sinh niềm vui và đời sống được tái sinh đích thực. Với tâm tình đó, Đức Thánh Cha đã mạnh dạn nhắc lại: “Tôi mời gọi mọi Kitô hữu, ở bất cứ nơi nào và hoàn cảnh nào, ngay lúc này đổi mới cuộc gặp gỡ cá nhân của mình với Chúa Giêsu Kitô… không có một lý do nào mà một người có thể nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho mình” (số 3).

Đức Bênêđictô XVI đã nói rõ tại sao niềm vui được nảy sinh của cuộc gặp gỡ cá vị này với Đức Kitô: “Gặp gỡ Chúa Giêsu bao giờ cũng làm dậy lên trong lòng niềm vui vô tận. Chúng ta thấy điều này trong nhiều câu chuyện của Tin Mừng. Chẳng hạn, chúng ta thấy khi Chúa Giêsu đến thăm Dakêu, một người thu thuế bất lương, một người tội lỗi ai cũng biết, Ngài bảo: ‘Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông’. Thánh Luca thuật lại, ông Dakêu ‘vui mừng đón tiếp Ngài’ (Lc 19,5-6). Đó là niềm vui gặp gỡ Chúa, niềm vui cảm nhận tình yêu Chúa – một tình yêu có sức biến đổi cả cuộc đời chúng ta và mang lại ơn cứu độ. Dakêu đã quyết định thay đổi cuộc sống và tặng phân nửa tài sản của mình cho người nghèo.

3. Niềm vui của Tin Mừng cần được loan báo

Tông huấn Evangelii Gaudium trình bày điểm cốt lõi của niềm vui Tin Mừng chính là việc loan báo, Đức Phanxicô nói: “Điều tốt lành luôn luôn có khuynh hướng lan truyền. Mỗi kinh nghiệm đích thực về chân lý và sự thiện mỹ là tự nó tìm cách lan rộng, và mọi người trải qua một cuộc giải phóng sâu xa trở nên nhạy cảm hơn với những nhu cầu của người khác. Khi người ta truyền thông nó, sự thiện bén rễ và phát triển. Cho nên, những ai muốn sống cách xứng đáng và trọn vẹn phải nhận ra những người khác và tìm kiếm sự tốt lành cho họ. Vì thế một số cách diễn tả của Thánh Phaolô không làm cho chúng ta ngạc nhiên: “Tình yêu Đức Kitô thúc đẩy chúng ta” (2 Cr 5: 14), “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cor 9,16) (EG số 9).

Tin Mừng Chúa Giêsu chính là Lời Thiên Chúa được loan báo, nếu Lời Thiên Chúa không được nói ra thì Thiên Chúa mãi là một Thiên Chúa ẩn giấu, và sẽ không có một mối tương giao nào giữa Thiên Chúa và con người được thiết lập. Và như thế, việc Thiên Chúa hiện hữu hay không đối với con người không còn là điều quan trọng. Nhưng, Thiên Chúa không là một Đấng ẩn giấu, vì Ngài là Tình Yêu (1G 4,7), mà bản chất của tình yêu là tỏ bày. Thật vậy, Thiên Chúa “là niềm vui vô tận không khép kín trong chính mình nhưng mở ra để ôm lấy những ai Ngài yêu mến và những ai yêu mến Ngài. Vì yêu thương Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ngài để tuôn đổ tình yêu của Ngài trên chúng ta và cho chúng ta được lãnh nhận đầy tràn sự hiện diện và ân sủng của Ngài. Thiên Chúa muốn chúng ta được chia sẻ niềm vui thiêng liêng và bất diệt của chính Ngài, và giúp chúng ta thấy rằng giá trị và ý nghĩa sâu xa của đời sống chúng ta là được Ngài chấp nhận, đón vào và thương yêu”[6].

Quả thật, niềm vui được nhận lãnh sẽ chẳng mang lại lợi ích gì nếu niềm vui đó không được loan truyền. Căn tính của niềm vui Tin Mừng chính là được tiếp tục xẻ chia, nói như Đức Bênêđictô XVI: “Chúng ta không thể hạnh phúc nếu những người khác không hạnh phúc. Niềm vui phải được chia sẻ. Chúng ta không được giữ lấy niềm vui đức tin cho riêng mình. Nếu muốn giữ được niềm vui ấy, chúng ta phải cho đi. Thánh Gioan nói: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, bây giờ chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, chúng tôi viết ra điều này để niềm vui của chúng ta được trọn vẹn” (1 Ga 1,3-4)”[7].

Nhưng phải chia sẻ niềm vui Tin Mừng như thế nào? Tông huấn Verbum Domini đã chỉ cho người tín hữu cách thế để niềm vui Tin Mừng thực sự được gieo vãi đến cho người khác để họ cũng được thông dự vào niềm vui này. Tông huấn viết: “Điều quan trọng là mỗi hình thức loan báo phải ghi nhớ trước hết quan hệ nội tại giữa việc thông truyền Lời Chúa và việc làm chứng của Kitô hữu. Chính tính khả tín của việc loan báo tùy thuộc vào điều này. Một đàng, Lời phải thông truyền những gì chính Chúa đã nói với chúng ta; đàng khác, cần phải làm chứng để đưa lại tính khả tín cho Lời này, để Lời này không xuất hiện ra như một thứ triết lý tốt đẹp hay như một không-tưởng, mà là một thực tại người ta có thể sống và là thực tại làm cho người ta sống. Tính hỗ tương này giữa Lời và chứng tá phản ảnh cách thế Thiên Chúa dùng để tự thông truyền chính mình trong công cuộc Nhập thể của Ngôi Lời của Ngài. Lời Thiên Chúa đến với mọi người ‘qua cuộc gặp gỡ với các chứng nhân đang làm cho Lời nên hiện diện và sống động’. Đặc biệt, những thế hệ trẻ cần được khai mở vào Lời Thiên Chúa ‘qua việc gặp gỡ và làm chứng chân chính của người lớn, qua ảnh hưởng tích cực của bạn bè và qua cuộc đồng hành vĩ đại của cộng đoàn Giáo Hội’.

Vâng, có Chúa hiện diện bên ta, lòng ta ngập tràn niềm vui, và chúng ta không phải lo âu sợ hãi. Với niềm vui này, Đức Phanxicô trong Tông huấn Evangelii Gaudium đã vạch ra kế sách cho công việc loan báo Tin Mừng hôm nay, ngài viết: “Trong Tông Huấn này, tôi muốn khuyến khích các tín hữu Kitô giáo, để mời họ vào một giai đoạn mới của truyền giáo được đánh dấu bằng niềm vui trong khi chỉ ra những con đường mới cho cuộc hành trình của Hội Thánh trong những năm tới”. (EG số 1)

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –

[1] Jean Paul Sartre, Le Mur, 1938, tr. 52

[2] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Dei Verbum, số 2.

[3] Đức Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini, số 6.

[4] Nt, số 2.

[5] Nguồn: http://www.vietcatholic.net/News/Html/125267.htm

[6] Nt.

[7] Nt.

Lm. Antôn Hà Văn Minh

Nguồn: hdgmvietnam.com