Hội đồng Giám mục Việt Nam
Ủy ban Giáo dân
THƯỜNG HUẤN THÁNG 09/2024:
ĐI THEO CON ĐƯỜNG CHÚA GIÊSU
BÀI 2. NOI GƯƠNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông huấn “Người tín hữu giáo dân” đã nói: “Một điều tuyệt đối cần thiết là giáo dân phải luôn ý thức sống động mình là một ‘chi thể của Giáo Hội’, được trao phó một nhiệm vụ độc đáo, không thể thay thế và không thể ủy thác cho người khác, một nhiệm vụ phải hoàn thành vì lợi ích của mọi người”. Trong viễn ảnh đó, quả quyết của Công Đồng Vatican II về việc mỗi người nhất thiết phải làm việc tông đồ, đã nói lên tất cả ý nghĩa: “Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện và là việc luôn luôn bắt nguồn từ mạch sống Kitô giáo (x. Ga 4,14), việc ấy là nguyên lý và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân” (số 28).
Như vậy, nguồn lực để làm tông đồ khởi sự từ “nguồn mạch sống Kitô giáo”, bởi việc tông đồ là chiếu giãi trường kỳ ánh sáng Tin mừng trong mọi khu vực và môi trường mà cuộc sống thường nhật và cụ thể của giáo dân đang tiếp xúc, vì thế “việc tông đồ có liên hệ với sự gắn bó liên lỉ của đời sống cá nhân với đức tin” (số 29), điều đó cũng có nghĩa là để việc làm tông đồ mang lại hiệu quả thiết thực thì người giáo dân được mời gọi trước tiên phải noi gương Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày.
1. Noi gương Chúa Giêsu trong đời sống cầu nguyện
Cầu nguyện là lẽ sống của Chúa Giêsu trong đời sống thi hành sứ vụ Cha giao phó. Người khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện. Cầu nguyện để đón nhận và thi hành thánh ý của Chúa Cha (x. Mt 4,1-11). Các tác giả Tin Mừng luôn tường thuật về việc Chúa Giêsu liên lỉ cầu nguyện: “Giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện” (Mt 14, 23); “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện” (Mt 26,36); “sau khi từ biệt các ông, Ngài lên núi cầu nguyện” (Mc 6,46); “Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện” (Lc 5,16)… Và Người không ngừng khuyên các môn đệ hãy cầu nguyện, và Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1). “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38).
Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đời cầu nguyện trong việc tông đồ. Ngài đã lý giải về sinh hoạt buổi ban đầu của Giáo Hội sơ khai: Các Tông đồ “phải đương đầu với một việc hết sức cần thiết là phải công bố Lời Chúa, theo mệnh lệnh của Chúa; nhưng dù đó là nhu cầu cấp bách hàng đầu của Hội Thánh, các ngài cũng coi trọng không kém nhiệm vụ thực thi bác ái và công lý, tức là nhiệm vụ giúp đỡ các góa phụ và người nghèo, rằng các Tông Đồ đã giải quyết tình trạng này với một tinh thần trách nhiệm rất cao, khi các ngài đi đến quyết định này là việc chọn bảy người. Các Tông Đồ cầu nguyện để xin sức mạnh của Chúa Thánh Thần”. Đức Thánh cha nói ró: “Trong cả hai trường hợp, những giờ phút cầu nguyện, lắng nghe Thiên Chúa, và các hoạt động hàng ngày, như việc thực thi bác ái, không trái ngược nhau”. Ngài cho rằng việc tham gia vào các hoạt động hằng ngày được thực hiện với tinh thần trách nhiệm và dấn thân là điều quan trọng, nhưng để các hoạt động đó mang lại hiệu quả theo Thánh ý Chúa “chúng ta cần Thiên Chúa, cần sự hướng dẫn của Ngài, cần ánh sáng của Ngài, là điều ban cho chúng ta sức mạnh và hy vọng. Nếu chúng ta không trung thành sống lời cầu nguyện hàng ngày, thì hành động của chúng ta trở thành trống rỗng, vô hồn, bị giảm xuống thành chủ trương hoạt động thuần túy, là điều cuối cùng không thỏa mãn được chúng ta”[1].
Do đó, việc noi gương Chúa Giêsu trong đời sống thường ngày là con đường nền tảng mà người giáo dân cần học đòi bắt chước để làm việc tông đồ. “Nếu cầu nguyện và Lời Chúa không nuôi dưỡng được hơi thở đời sống tâm linh của chúng ta, chúng ta có nguy cơ bị nghẹt thở giữa hàng ngàn điều phải lo lắng mỗi ngày: cầu nguyện là hơi thở của linh hồn và của đời sống. Và có một lời nhắc nhở quý giá khác mà tôi muốn nhấn mạnh: trong sự liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, trong việc lắng nghe Lời Ngài, trong cuộc đàm đạo với Thiên Chúa, ngay cả khi chúng ta ở trong sự thinh lặng của một nhà thờ hoặc trong phòng riêng của mình, chúng ta kết hợp trong Chúa với rất nhiều anh chị em khác trong đức tin, như một tổng hợp các nhạc cụ, mặc dù vẫn giữ cá tính riêng của chúng, dâng lên Thiên Chúa một buổi hòa tấu vĩ đại của lời chuyển cầu, tạ ơn và chúc tụng”[2]
2. Noi gương Chúa “chạnh lòng thương” trong việc phục vụ cho tha nhân
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma đã nói: “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình. Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ, và để xây dựng. Thật vậy, Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu” (Rm 15, 1-3). Chỉ một vài dòng ngắn ngủi, Thánh Phaolô đã cho chúng ta một mẫu gương sống động của Chúa Giêsu hầu chúng ta bắt chước hầu biến chúng ta thành những con người loan báo Tin Mừng mang lại nhiều niềm vui cho nhiều người.
Thánh Phaolô cho thấy Chúa Giêsu là Đấng đầy lòng nhân hậu, khoan dung, lấy nhu cầu của người khác hơn chính bản thân mình. Tại tiệc cưới Cana, Chúa thấu hiểu nỗi băn khoăn của chú rể, Người không ngần ngại thực hiện phép lạ hóa nước thành rượu, cho dẫu “giờ” Người chưa tới (Ga 2, 1-17), Một người phụ nữ phạm tội ngoại tình, Chúa hiểu nỗi đau khổ và sự sám hối của chị, Chúa không kết án nhưng thứ tha, mặc dầu Người biết các luật sĩ và người Pharisiêu rất căm tức (Ga 8, 1-11). Nhìn thấy đám đông đám đông lũ lượt theo Người như chiên không có chủ chăn, Chúa chạnh lòng thương (Mc 6, 30-42; Mt 9, 36). Vâng, chạnh lòng thương là nét đẹp của cuộc đời Chúa Giêsu trên con đường thi hành sứ vụ. Các tường thuật của bốn tác giả sách Tin Mừng đã tường thuật nhiều về các hoạt động liên lỉ của Chúa trong việc chữa lành tật bệnh, xua trừ ma quỉ, cứu giúp người nghèo, tất cả xuất phát từ một tấm lòng đầy lân ái, mà tác giả Tin Mừng trình bày: Chúa “chạnh lòng thương”. Chúa “chạnh lòng thương khi nhìn thấy người mẹ góa tiễn đưa đứa con trai duy nhất đi ra nghĩa trang, Chúa đã chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông vất vả lầm than….” Bao nhiêu câu chuyện được các tác giả Tin Mừng tường thuật như người Samaria nhân hậu, người con hoang trở về… đều nói đến tấm lòng nhân hậu của một Thiên Chúa xuống thế làm người.
Bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải thuộc lòng chính là biết chạnh lòng thương. Đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ được mời gọi trở nên giống Ngài, biết tạo cho mình thói quen biết rung động trước những hoàn cảnh khốn khó của người khác, trước những người đang thực sự cần giúp đỡ. Chạnh lòng thương không có nghĩa là bày tỏ lòng thương xót, không chỉ là nghĩa cử thương hại nhưng là đồng cảm và đồng hoá mình với người khốn khó.
Bởi vậy, như là người môn đệ của Chúa, người tín hữu giáo dân cùng phải học đòi bắt chước Chúa về lòng trắc ẩn và lòng khoan thứ bao dung. Nói như Đức Phanxicô, người tông đồ là người đi “tìm kiếm những người xa cách mình, và đến ngã ba đường để mời những người bị ruồng bỏ”. Thể hiện “một ước muốn vô tận để ban tặng sự thương xót, là kết quả của kinh nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha và sức mạnh của sự lan tỏa của lòng thương xót này”. Người tông đồ luôn sẵn sàng “tham gia vào cuộc sống hằng ngày của những người khác bằng việc làm và cử chỉ của mình, nó rút ngắn những khoảng cách, tự hạ mình xuống đến nỗi chịu sỉ nhục nếu cần, và chấp nhận đời sống con người, chạm đến thân xác đau khổ của Ðức Kitô trong những người khác”[3].
Noi gương Chúa Giêsu trong cuộc sống hằng ngày bằng việc thể hiện lòng thương xót trước tiên trong môi trường gia đình. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã minh định: “Gia đình là chiếc nôi của sự sống và tình yêu, trong đó con người ‘sinh ra’ và ‘lớn lên’, nên là tế bào nền tảng của xã hội. Cần phải quan tâm đặc biệt đến cộng đồng này[4]. Hơn bao giờ hết gia đình đang đối diện với khủng hoảng về ly dị, nạn bạo hành gia đình, tình yêu thương hợp nhất, sự thủy chung đang từng bước gãy đổ vì tính ích kỷ của vợ chồng, sự tục hóa tính thánh thiêng của tình yêu vợ chồng đang càng ngày càng lớn mạnh, vì thế các gia đình kitô hữu cần noi gương Chúa Giêsu về lòng trắc ẩn và sự khoan dung. Vợ chồng phải biết “chạnh lòng thương” với nhau để cảm thông và tha thứ, nhờ đó “các tương quan giữa những phần tử trong cộng đồng gia đình được phát triển dưới sự thúc đẩy và hướng dẫn của luật ‘cho không’ bằng cách kính trọng và vun trồng nơi mọi người cũng như nơi mỗi người, ý thức về phẩm giá con người như nguồn giá trị duy nhất”[5]. Từ một gia đình biết tôn trọng phẩm giá của nhau, biết tỏ lòng nhân hậu với nhau của các thành viên trong gia đình, họ sẽ trở thành một gia đình Kitô hữu sẵn sàng làm chứng cho mọi người thấy sự tận tâm quảng đại và vô vị lợi, đặc biệt lo cho những người nghèo và những người bị bỏ rơi. Họ ghi ấn trong gia đình tấm lòng của Chúa, một tấm lòng biết “chạnh lòng thương”.
Đức Phanxicô đã khẳng định: Bản thân Đức Kitô không gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được ban tặng cách vô điều kiện. Các mối liên hệ giữa Người và những ai tìm đến với Người, là một tương quan đặc thù duy nhất và không thể tái diễn. Những dấu lạ Người thực hiện, nhất là cho các tội nhân, cho những người nghèo khổ, những người bị gạt ra bên lề xã hội, cho các bệnh nhân và những người đau khổ, tất cả đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Tất cả mọi sự nơi Người đều tỏ bày cho thấy lòng thương xót. Không có gì nơi Người lại thiếu vắng lòng thương xót”[6]. Vì thế mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng phải mặc lấy dung mạo này, để trong cuộc sống thường ngày chúng ta biết tha thứ, bởi “Việc tha thứ những xúc phạm là một thể hiện rõ ràng nhất của tình yêu thương xót, và đối với các Kitô hữu chúng ta, đây là một mệnh lệnh không thể bỏ qua. Có những lúc dường như thật khó để thứ tha. Nhưng tha thứ là một khí cụ được đặt vào đôi tay mỏng dòn của chúng ta để tìm được sự thanh thản cho tâm hồn. Giải tỏa những hờn ghét, giận dữ, bạo lực và trả thù là những điều kiện cần thiết để sống hạnh phúc”[7].
3. Noi gương Chúa Giêsu trong việc kiến tạo sự gần gũi với tha nhân
Con đường loan báo về Vương Quốc Thiên Chúa là con đường tiếp cận tạo nên sự gần gũi. Quả thật, qua những bước đường Chúa đi loan báo, Chúa đã hình thành con đường yêu thương đối với tha nhân, còn được gọi là con đường kết nối tình huynh đệ, bao gồm sự gần gũi, lắng nghe, chia sẻ, quan tâm đến người khác. Trên con đường này, Chúa Giêsu đã đi đến gặp gỡ với hết mọi người, từ người trưởng thành đến trẻ em, Người gặp gỡ người thông thái, kẻ dốt nát, người giàu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi, tất cả đều được trái tim Chúa mở rộng đón vào, và trao cho họ ánh mắt nhìn âu yếm, lời nói đầy cảm thông, và mời gọi.
Hình ảnh Chúa giơ tay đụng chạm vào người phong cùi (Lc 5,12, Mt 8,3); việc Chúa chọn Lêvi, người thu thuế làm tông đồ (Mt 9, 9); tại nhà ông Lêvi, Chúa ngồi đồng bàn với người tội lỗi lắng nghe họ, chia sẻ và mời gọi họ trở về con đường công chính; câu chuyện Chúa gặp gỡ Giakêu (Lc 19,1-10); hay với người phụ nữ Samarie (Ga 4, 27)… chúng ta bắt gặp một Giêsu thật gần gũi, thân thiện, dễ mến để từ đó Chúa kiến tạo một sự gặp gỡ với những con người được gọi là tội lỗi hay là dân ngoại, qua cuộc gặp gỡ này Chúa đã giúp họ nhận ra con đường dẫn tới chân lý.
Đây chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta, những người tín hữu đang trên con đường hiệp hành của Giáo hội, một con đường rộng mở để tiếp đón, để hiệp thông chia sẻ, để cùng nắm tay nhau bước đi tiến về Nhà Cha. Vì thế, chúng ta chỉ có thể chia sẻ niềm vui Tin Mừng cho người khác khi chúng ta nỗ lực đi ra khỏi chính mình để đi đến gặp gỡ, đối thoại, lắng nghe. Có như thế, chúng ta mới có thể trao ban niềm vui Tin Mừng cho người khác. Chúng ta gặp gỡ tại xưởng làm, nơi chợ búa, trên đường đi, xóm giềng chung quanh, trong các nhóm cùng sở thích… bao nhiêu là cơ hội để chúng ta kiến tạo nên cuộc gặp gỡ, những cuộc gặp gỡ không để nói chuyện về mình, về gia đình mình, nhưng để lắng nghe, để nói về niềm vui kín múc từ Chúa Giêsu. Đó chính là làm tông đồ.
Chúa nói: “Ai theo Tôi sẽ không đi trong tăm tối” (Ga 8:12), và Sách Gương Chúa Giêsu đã giảng giải: “Qua những lời của Đức Kitô chúng ta được khuyên nhủ hãy bắt chước đời sống và thói quen của Người”. Chỉ có thể hoán cải chính mình và làm cho người khác hoán cải, khi mỗi người chúng ta thực sự trở nên giống Chúa Giêsu. Do đó, mỗi người phải uốn nắn cuộc sống hằng ngày của mình theo cuộc đời của Đức Kitô.
Lm. Antôn Hà Văn Minh
Nguồn: hdgmvietnam.com