Lời giới thiệu về tài liệu:
Dựa trên nền tảng các văn kiện Công Đồng Vaticanô II về đào tạo linh mục (“Optatam totius”) và thừa tác vụ linh mục (“Presbyterorum Ordinis”), Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo đã ấn hành năm 1971 tài liệu “Ratio Fundamentalis” (“Chỉ Nam Đào Luyện”) như là kế hoạch cơ bản cho việc đào tào linh mục và thi hành các tài liệu công đồng. ‘Kế hoạch cơ bản’ này từ đó được coi như nguyên tắc hướng dẫn cho mọi chương trình đào tạo chủng sinh và các nhà đào luyện.
Theo sau “kế hoạch cơ bản này” Thánh Bộ cũng đã ấn hành một số ‘hướng dẫn’ khác hay tài liệu tương tự để khai triển thêm và mô tả chi tiết một số lãnh vực đào tạo linh mục. Như vậy, ngoài văn kiện cơ bản “Ratio Fundamentalis”, Thánh Bộ cũng đã ấn hành các tài liệu hướng dẫn và các tài liệu tương tự về đào tạo thần học (1976), nghiên cứu thần học (1972), đào luyện linh đạo (1979), giảng dạy Giáo luật (1975), độc thân linh mục (1974), các khía cạnh đào luyện linh đạo (1980), nghiên cứu và giảng dạy các học thuyết của Hội Thánh (1988), hay nghiên cứu về chức Linh Mục của Hội Thánh (1989). Hướng dẫn “Đào tạo các linh mục tương lai về Phương tiện Truyền Thông Xã hội” (1986) phải được xem dưới ánh sáng của các ấn phẩm này.
Chỉ nam đào luyện linh mục “Ratio Fundamentalis” trong mục nói về “Việc học các môn Khoa học và Nghệ thuật đoạn 68 bắt đầu bằng những lời sau đây: “Con người ngày nay nhận được thông tin và niềm xác tín không những từ sách vở và thầy dạy, nhưng nhiều hơn từ các phương tiện nghe nhìn. Vì vậy linh mục cần phải giỏi trong các lãnh vực này. Tuy nhiên họ phải có một thái độ đúng trong lãnh vực này; sẵn sàng sử dụng một cách có phê phán, không chỉ là khán thính giả thụ động.”
Trong khi văn kiện “Ratio Fundamentalis” nói về “phương tiện nghe nhìn,” thì các hướng dẫn quan tâm trước tiên tới “đa phương tiện truyền thông ngày nay” hay còn gọi là “truyền thông đại chúng hay các kỹ thuật truyền bá hay truyền thông đại chúng, hay nghe-nhìn”. Về điểm này, có vẻ như văn kiện này không quan trọng bằng Sắc lệnh công đồng “Inter Mirifica” trong đó có ghi chú nói rằng các cụm từ này không diễn tả hữu hiệu điều mà ban trù bị sắc lệnh muốn truyền đạt. Vì thế “Inter Mirifica” đề nghị cụm từ mới “truyền thông xã hội”, nó rộng hơn “truyền thông đại chúng” và bao gồm mọi phương tiện truyền thông của và trong xã hội loài người. Quan điểm rộng về truyền thông này quan trọng đặc biệt cho việc đào tạo linh mục trong những nước thế giới thứ ba, nơi đó các phương tiện truyền thông khác trong nền văn hóa địa phương thường quan trọng hơn và được sử dụng nhiều hơn trong truyền thông đại chúng. Không may điều này không được hướng dẫn đầy đủ trong “Hướng dẫn” liên quan đến đa phương tiện truyền thông đại chúng. Cũng trong “hướng dẫn” đó, có sự thừa nhận rằng nhu cầu mục vụ đôi khi đòi hỏi chúng ta cũng phải học và thực hành phương tiện truyền thông và các công cụ diễn đạt và truyền thông như kịch nghệ, nghệ thuật biểu trưng, v.v…, mặc dù những hình thức này quá giới hạn, như chúng ta đã nói ở trên” (số 7)
Khi giới thiệu tài liệu “Hướng dẫn” này, Hồng Y William Baum Bộ Trưởng Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo đề cập đến sự kiện Thánh Bộ đã “tham vấn rộng rãi các chuyên gia trong lãnh vực này, và đặc biệt là với Ủy Ban Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội.” Ngài tin rằng các viện đào tạo linh mục “ngày nay phải khẩn trương chăm lo những vấn đề cơ bản liên quan tới hành vi tiếp nhận của cá nhân, quan tâm mục vụ đối với truyền thông đại chúng, và đào tạo đặc biệt cho một số lãnh vực.”
Trong văn kiện “Hướng dẫn” năm 1986, nhu cầu truyền thông đối với nhà giáo dục, giáo sư và chủng viện “như là trường học truyền thông” được mô tả xa hơn hướng truyền thông đại chúng trong quá khứ: “… nhà giáo dục phải là một nhà truyền thông giỏi, có thể trình bày rõ ràng những giá trị và những ý tưởng là mục tiêu đào tạo, làm cho nó trở nên thích hợp cho việc tiếp nhận của sinh viên. Chủng viện, trọng điểm giáo dục, phải trở nên một trường học truyền thông kích thích sức sống, chuẩn bị cho những linh mục tương lai nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng đầy khó khăn.
“Huấn Thị” năm 1986 cũng nói về nhu cầu tạo ra một bầu khí truyền thông giữa sinh viên và nhà giáo dục để huấn luyện họ tham gia vào đối thoại nhóm và đối thoại liên cá nhân, để tâm đến sự chính xác ngôn ngữ, phát biểu rõ ràng, v.v… (39).
Trong một văn kiện khác về “Đời Sống Huynh Đệ trong cộng đoàn” (tháng 2, 1994) “Thánh Bộ Các Dòng Tu thánh hiến và Các Tu Hội tông đồ” nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự “truyền thông để cùng nhau lớn lên”, điều này cũng phải được áp dụng trong các cộng đoàn chủng viện và phải được nhìn trong tương quan với bản “Hướng dẫn” (các số 29-34; cf. Eilers: Communicating in Community 2nd ed., Manila 1994, tr. 228t.)
“Hướng dẫn” có hai phụ lục không được in lại ở đây. Đó là (1) liệt kê các trích dẫn từ 41 văn kiện chính thức của Hội Thánh từ năm 1935 tới 1985 về huấn luyện truyền thông đại chúng cho tu sĩ, bao gồm những đoạn liên quan trọng Bộ Giáo Luật mới (666, 747, 761, 779, 804, 822, 823, 1063, 1369); (2) danh mục “các bộ môn” liệt kê các môn học được đề nghị học và dạy dưới các tiêu đề:
(a) Truyền thông con người,
(b) Phương tiện và dụng cụ truyền thông và Hội Thánh.
(c) Tổng quan phương pháp tiếp cận mục vụ đối với truyền thông đa phương tiện và
(d) Phương pháp mục vụ đối với truyền thông cá nhân.
“Hướng dẫn” được gửi “cho các Hội Đồng Giám Mục, các giám mục địa phận, các bề trên và giáo sư đại chủng viện” (no. 6)
Sau đây là toàn văn tài liệu bản dịch Việt ngữ của Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM:
BỘ GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO LINH MỤC TƯƠNG LAI
VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
GIỚI THIỆU
1. Truyền thông nhân loại, một món quà của Chúa. Thiên Chúa, Thiên Chúa tối cao không ngừng truyền thông các món quà của Ngài cho nhân loại, đối tượng quan tâm và yêu mến của Ngài, chờ đến thời gian Ngài truyền thông chính Ngài một cách đầy đủ hơn trong khung cảnh viên mãn. Hơn nữa, để hình ảnh Ngài nơi con người càng ngày càng phản chiếu sự hoàn hảo của Chúa (cf. Mt 5, 48), Ngài muốn liên kết họ trong công trình của Ngài, làm cho họ, trở thành người mang thông điệp và phân phát chính món quà đó cho anh em và toàn thể nhân loại.
Do bản tính tự nhiên đòi hỏi, con người từ thời xa xưa phải truyền thông tài sản vô hình cho đồng loại[1], bằng những dấu hiệu giác quan có thể cảm nhận được. Dần dần, với thời gian, họ khám phá ra phương tiện chuyển tải truyền thông có thể vượt qua được giới hạn thời gian và không gian. Thế giới đã trải qua một cuộc phát triển công nghệ mau lẹ đến mức có thể truyền thông ngay tức thời khắp thế giới, công nghệ ngày càng tinh vi với tốc độ ngạc nhiên.
2. Mặc khải và truyền thông. Hội Thánh không thể không quan tâm đến sự phát triển quan phòng này, bởi vì Hội Thánh trọng trách loan truyền sự thật về mặc khải cho toàn nhân loại. Quả thực, Thiên Chúa nhiều lần nhiều cách đã phán dạy qua các tiên tri vào thời xưa; ngày nay Ngài đã nói với chúng ta bằng chính Con của Ngài (Dt 1:1-2) và Ngài đã sắp đặt để một khi đã tiết lộ ơn cứu độ cho mọi người, thì mọi điều sẽ ở lại trong họ hoàn toàn, và được loan truyền cho muôn thế hệ. Vì thế Chúa Kitô đã truyền cho các tông đồ rao giảng Tin Mừng cho mọi người… Điều này được thi hành một cách trung thành: nó đã được các tông đồ thực hiện, và các tông đồ sau đó truyền lại, bằng lời rao giảng của mình, bằng gương sáng của họ, bằng những định chế họ đã thiết lập, những điều họ đã nhận được – dù là từ miệng Đức Kitô, từ lối sống của Ngài hay từ công việc Ngài làm…; các tông đồ và những người cộng tác với các tông đồ đã ghi lại thông điệp cứu rỗi thành văn bản.
“Để Tin Mừng có thể được gìn giữ nguyên vẹn và sống động trong Hội Thánh, các tông đồ đã đặt các giám mục làm người kế thừa. Họ được trao cho quyền giảng dạy.”[2]
3. Từ “truyền thông tới hiệp thông”. Gần đây Hội Thánh đã coi công cụ truyền thông như phương tiện quan phòng để hoàn thành sứ mạng “rao giảng (lời cứu rỗi) trên các mái nhà” (Lc 12:3), “cho mọi dân tộc” (Mc 16:15), “cho tới tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Hội Thánh quan tâm tới giáo dục và chăm sóc con người, toàn thể con người, cả người Kitô hữu và mọi người nói chung. Trong thực tế, Hội Thánh đã chào đón nồng nhiệt những công cụ này “như những phát minh tuyệt vời của thời đại có thể ảnh hưởng mạnh mẽ tới trí tuệ con người”[3]và như “kết quả tuyệt diệu của công việc và tài năng, món quà của Chúa, nơi Người phát xuất mọi điều tốt đẹp.”[4]
Trước các giá trị văn hóa và luân lý hai mặt được các chương trình truyền thông đa phương tiện phổ biến, Hội Thánh “với sự quan tâm canh phòng”[5] đã ra sức hóa giải “mọi cách sử dụng trái với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa”[6] và những điều có thể gây nguy hại hay hủy hoại các tạo vật của Người.
Hội Thánh sau Công Đồng dạy rằng, một cách lý tưởng, “truyền thông” phải mang lại kết quả “hiệp thông”, dù là truyền thông liên cá nhân hay truyền thông “đại chúng”. Điều giảng dạy này tương tự với hai mẫu truyền thông- hiệp thông hoàn hảo của Thiên Chúa. Mẫu thứ nhất là Chúa Kitô, “Nhà truyền thông hoàn hảo”, trong Người Ngôi Lời Nhập Thể mang lấy “bản chất của những người sẽ nhận truyền thông của Người và trao cho họ thông điệp của Người, không phải chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc đời của Người. Người nói từ trong chính dân tộc, từ sự thúc giục của dân Người. Người điều chỉnh theo cách nói của dân Người và theo cách thức suy nghĩ của họ. Và Người nói lên tình trạng khẩn trương của thời đại họ…”
“Khi thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô đã cho chúng ta hình thức truyền thông hoàn hảo nhất, thân thiết nhất giữa Thiên Chúa và loài người.. Hơn nữa, Chúa Kitô truyền thông cho chúng ta Thánh Thần ban sự sống của Người, đấng sẽ liên kết mọi người với nhau”.[7]
Một mẫu truyền thông khác được thấy trong “mầu nhiệm trung tâm về sự hiệp thông vĩnh cửu giữa Cha, Con và Thánh Thần trong một sự sống thần linh duy nhất”.[8]
4. Công cụ truyền thông xã hội và chức linh mục thừa tác. Trong vài thập niên trở lại đây, công cụ truyền thông xã hội đã đi tới mức ảnh hưởng lên mọi khía cạnh, mọi khu vực, và quan hệ xã hội. Các vấn đề nảy sinh từ ảnh hưởng đang lớn lên này thúc đẩy các lãnh đạo trong Hội Thánh đưa ra những giáo huấn, hướng dẫn và tiêu chuẩn cấp bách. Những điều này là để bảo vệ lợi ích không chỉ cho các tín hữu và mọi người thiện chí, mà còn cho những người được kêu gọi thi hành thừa tác vụ linh mục trong thế giới ngày nay.[9]
Tuân theo những hướng dẫn do Hội Thánh ban hành, từ năm 1970, Thánh Bộ đã đưa ra những chỉ dẫn về những vấn đề liên quan tới công cụ truyền thông xã hội, và đã tiếp tục dạy rằng các linh mục tương lai phải được huấn luyện trong chủng viện cách sử dụng đúng những công cụ này. Đòi hỏi này có ba mục đích, đó là các chủng sinh có thể đưa kỷ luật vào việc sử dụng đa phương tiện truyền thông, để họ có thể huấn luyện các tín hữu sử dụng truyền thông một cách có kỷ luật, và để họ có thể học cách sử dụng đa phương tiện vào nhiệm vụ tông đồ của mình.[10]
Năm sau, Huấn Thị Mục Vụ Communio et Progressio cũng nói về cùng vấn đề này. Huấn thị viết: “Nếu các chủng sinh và tu sĩ đang trong thời kỳ đào luyện muốn trở nên một phần của cuộc sống hiện đại và có hiệu quả trong việc tông đồ, họ phải biết cách thức mà đa phương tiện truyền thông tác động vào cấu trúc xã hội như thế nào, và học biết cách thức sử dụng nó. Kiến thức này phải là một phần không thể thiếu trong giáo dục bình thường của họ.”[11]
5. Tình huống hiện nay. Hướng dẫn trong Ratio Fundamentalis(về đào tạo linh mục) phải được các HĐGM thẩm quyền lưu ý trong khi soạn các Nguyên tắc đào tạo cho quốc gia mình, để nó có thể phát huy được hiệu quả đặc biệt trong nội qui và chương trình của chủng viện.
Vì đây là một việc đưa một yếu tố hoàn toàn mới vào chương trình học của chủng viện, nên khó khăn là điều không thể tránh. Thánh Bộ nhìn thấy trước điều này, nên đã đưa ra một cuộc khảo sát năm 1917 ở các tiểu và đại chủng viện, để xác minh xem việc đưa chương trình huấn luyện trong lãnh vực truyền thông xã hội đã được hiểu và áp dụng tới mức nào.
Từ các câu trả lời nhận được, người ta thấy rằng vấn đề này đã được chú ý tới trong đa số các trung tâm đào tạo của Hội Thánh; tuy nhiên chương trình giảng dạy rõ ràng và có cấu trúc vẫn còn hoàn toàn thiếu, có thể bởi vì mục tiêu đặc biệt và phạm vi chương trình còn chưa được hiểu rõ, hay vì không thể phân biệt được mục tiêu và mức độ trong bản hướng dẫn. Và còn một vấn đề nữa là thiếu các phương tiện kỹ thuật và tài chính.
6. Về hướng dẫn này. Sự thiếu hiệu quả vẫn còn chưa được loại bỏ sau một số năm trôi qua, cộng với đà tiến bộ của truyền thông trong thời gian đó, có nghĩa là các viện đào tạo đang ngày càng tụt hậu. Vì lý do nay, Thánh Bộ, một mặt tán thành những tiến bộ vững chắc trong một số chủng viện và nhà đào tạo, mặt khác, sau khi tham vấn với Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, đã quyết định ban hành Hướng Dẫn này, trong đó đưa ra một số đề nghị và chỉ dẫn. Những hướng dẫn này tất nhiên có đặc tính chung, căn cứ vào những thay đổi phải vượt qua trong lãnh vực truyền thông, cũng như sự đa dạng của tình hình địa phương phải tính tới;[12]nhưng mục đích là đưa ra những hướng dẫn kịp thời, để những chỉ thị và đề nghị của các vị có thẩm quyền giảng dạy trong Hội Thánh và các điều khoản trong Ratio Fundamentalis được thi hành chính xác và hiệu quả. Hướng dẫn trước hết nhắm tới các HĐGM và các giám mục địa phận của các vùng lãnh thổ; rồi tới các bề trên và giáo sư đại chủng viện. “Hướng dẫn” này ảnh hưởng trực tiếp đến các chủng sinh tiểu chủng viện và đại chủng viện. Tuy nhiên tài liệu này cũng có thể sử dụng cho các chủng viện và viện đào tạo linh mục không thuộc Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo.
7. Đối tượng. Đối tượng giáo dục mà Hướng Dẫn nhắm đến trước tiên là đa phương tiện truyền thông của thời đại ngày nay, thường được gọi là truyền thông đại chúng,[13]hay kỹ thuật phổ biến hay nghe nhìn. Nó còn được gọi bằng những tên khác, nhưng Sắc lệnh Inter Mirifica và sau đó Bộ Giáo Luật,[14] đã gọi đó là “dụng cụ truyền thông xã hội”: “báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và những dụng cụ có đặc trưng tương tự” (số 1). Thực sự nó được phân biệt bởi trình độ công nghệ, do sự thích hợp đặc biệt để đạt được sự truyền thông, yếu tố chủ yếu trong hiện tượng xã hội hóa[15], một sắc thái của xã hội ngày nay.
Những vấn đề xã hội, văn hóa cũng như luân lý và mục vụ liên quan tới những công cụ này cũng là đối tượng của Hướng Dẫn. Trước hết là những điều nảy sinh trong truyền thông liên quan nhiều hơn tới con người nói chung, rồi tới những vấn đề nảy sinh do sự áp dụng công nghệ, đặc biệt ngày nay là công nghệ thông tin.[16]
Tuy nhiên, cũng như đối tượng trực tiếp, nhu cầu mục vụ đôi khi đòi hỏi chúng ta quan tâm tới việc học hỏi và thực hành các loại truyền thông khác và công cụ diễn đạt khác như kịch nghệ, nghệ thuật biểu trưng v.v…, mặc dù những thứ này nằm ngoài giới hạn chúng ta đề cập ở trên.
8. Tiêu chuẩn soạn thảo. “Hướng Dẫn” tránh bàn đến vấn đề kỹ thuật và lý thuyết về đa phương tiện và các hiện tượng xã hội và văn hóa liên quan tới nó; điều này dù sao các chuyên gia cũng còn đang không đồng ý với nhau. Cũng vậy, nó tránh đề cập dài dòng đến những gì Huấn Quyền của Hội Thánh đã dạy và đưa ra trên phương tiện truyền thông trong vòng năm thập kỷ trở lại đây; nó chỉ thu thập mọi tài liệu quan trọng và trình bày trong Phụ lục I. Và sau cùng ở Phụ lục II là một danh sách các chủ đề và tiêu đề cần xử lý ở ba cấp độ trong việc dẫn nhập và giáo dục phương tiện truyền thông xã hội.
CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG
9. Ba cấp độ. Bắt đầu khóa học với các nội dung truyền thông và tiếp tục với ba cấp độ là cách làm rất ý nghĩa.
Ở cấp độ thứ nhất, hay cơ bản, sẽ chú ý tới người tiếp nhận truyền thông, đó là độc giả, khán thính giả của đa phương tiện truyền thông.[17] Bởi vì mỗi người học sẽ được xem như người tiếp nhận, việc đào tạo từ quan điểm này là chung cho mọi học viên không có sự phân biệt.
Đào tạo ở cấp độ thứ hai là “mục vụ”, sẽ được dạy cho mọi linh mục tương lai, vì nó liên quan tới thừa tác vụ linh mục. Thừa tác vụ này đòi hỏi họ phải có khả năng huấn luyện cho người tín hữu cách sử dụng đa phương tiện truyền thông một cách có lợi nhất cho mục đích tông đồ.
Cấp độ thứ ba là huấn luyện “chuyên gia”, nó ảnh hưởng đến những người đang làm việc trong lãnh vực truyền thông, hay “những người tỏ ra có năng khiếu, được chuẩn bị để hoạt động trong lãnh vực này”[18] Cũng trong cấp độ ba này là những người đang chuẩn bị giảng dạy và huấn luyện cho hai cấp độ kể trên.
10. Duy trì các phân biệt. Những gì được giảng dạy ở mỗi cấp độ phải khá chính xác. Phải phân biệt rõ giữa các vấn đề liên quan thực sự tới công cụ truyền thông xã hội và những vấn đề không đụng chạm đến công cụ truyền thông một cách trực tiếp. Những lời khuyên sau đây được đưa ra:
a. Phải rất chú ý đến việc sử dụng ngôn từ chính xác; và phải luôn chú ý tới nghĩa khác nhau của từng tác giả và trường phái. Các thuật ngữ về pháp lý rất cần sự chính xác theo các định nghĩa của chúng trong bộ Giáo Luật.
b. Cách riêng, các nhật báo, báo định kỳ, tin tức, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và những phương tiện thông tin đại chúng có cùng đặc trưng kỹ thuật thì mới được coi là “công cụ truyền thông xã hội”.[19]Cần phân biệt các loại này với những phương tiện diễn tả khác có tầm quan trọng không phù hợp với mô tả (thí dụ như kịch nghệ); và cũng phân biệt những hoạt động truyền thông sử dụng công nghệ tương tự (như xuất bản sách), và những thứ bổ sung cho “công cụ” như đĩa, băng cát-sét, đèn chiếu, truyền thông nhóm, truyền thông thu nhỏ (‘minimedia’).
c. Luôn nhớ mức độ tiến hóa của công nghệ truyền thông xã hội nhanh chóng diễn ra theo xu hướng viễn thông (‘viễn tin học’: telechronics and telematics), trong đó truyền thông đại chúng là đối tượng, là phương tiện vận chuyển và là phản chiếu, do đó không thể chỉ sử dụng một phương tiện đơn lẻ duy nhất trong khóa học, như thể những phương tiện khác không tồn tại (thí dụ như chỉ phim ảnh hay chỉ truyền hình mà không đề cập tới lãnh vực sách in). Tương tự, sẽ là một sai lầm nếu chỉ xử lý khía cạnh nào đó của phương tiện một cách duy nhất (thí dụ như văn hóa và văn minh của “hình ảnh”). Đa phương tiện phải được xử lý như một tổng thể, và tất cả mọi vấn đề và góc cạnh đã được các tác giả nổi tiếng bàn tới phải được xem xét, như “đối thoại toàn cầu”, “làng toàn cầu”, “con người một chiều”, “con người lệ thuộc máy tính”, v.v..
d. Sau cùng, trong những hiện tượng văn hóa xã hội vĩ mô, cần phải dành nhiều chỗ cho những vấn đề liên quan tới xử lý thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, dư luận và giải trí, tùy theo mức độ chúng liên quan tới truyền thông đa phương tiện.
11. Đào tạo toàn diện. Ở hai cấp độ đầu của chương trình đào tạo – cơ bản và mục vụ – cần phải đào tạo truyền thông đại chúng như một thể thống nhất, với những giới hạn và nội dung hoàn toàn rõ ràng xác định, và phải chú ý đúng mức tới thực hành sư phạm. Như vậy:
a. Điều cần phải cố gắng trong mỗi trường hợp là tạo thành và gìn giữ nhân cách nơi người tiếp nhận [đa phương tiện], khi họ tiếp nhận các giá trị văn hóa – đạo đức và tâm lý- xã hội mà truyền thông đa phương tiện không ngừng đưa tới, sự tiếp nhận có thể làm cho họ phát triển hay tàn lụi nhân cách. Cần phải giúp chủng sinh trưởng thành như một người Kitô hữu, để khi sử dụng truyền thông đa phương tiện, họ biết sống cuộc đời linh mục một cách phong phú và hữu ích.
b. Cùng với dạy lý thuyết, cần phải cung cấp kinh nghiệm thực hành công cụ truyền thông. Điều này giúp sinh viên đạt được kiến thức về khuynh hướng văn hóa chính trị, tôn giáo và luân lý trong các sản phẩm đương thời khi họ trưởng thành. Nó cũng giúp họ đánh giá một cách thực tế và có phê phán công nghệ hiện đại. Để làm được điều này, chủng viện và các viện đào tạo cần phải được cung cấp công cụ thích hợp.
12. Vững chắc về tín lý. Đào tạo truyền thông xã hội phải được bắt đầu và tiếp tục trong một môi trường tín lý sâu sắc và an toàn, các giáo sư không được hời hợt và thiếu sửa soạn. (Cf. Phụ lục I, số 35). Vì vậy…
a. Giáo sư giảng dạy khóa cơ bản nhập môn sẽ không hữu hiệu nếu chỉ là nhà thực hành hay kỹ thuật viên của một môn truyền thông, mặc dù như thế họ có thể thao tác ở mức độ chuyên nghiệp cao. Họ cần nắm bắt được toàn bộ vấn đề, văn hóa và kỹ thuật, tôn giáo và trần tục, và điều đáng mong mỏi là họ nhận được những điều này qua tham dự khóa học ở cấp độ hai (mục vụ).
b. Các giáo sư dạy ở cấp độ hai đặc biệt phải biết những gì các nhà nghiên cứu có trình độ nhất trong các lãnh vực văn hóa khác nhau đã nghiên cứu và xuất bản. Nhưng trong khi giảng dạy cho sinh viên, họ phải phân biệt những gì là chắc chắn và đã được chứng minh với những gì còn là giả thuyết và mở ra để tranh luận. Họ phải phân biệt giữa những cái còn đang biến chuyển và những gì đã xác định, giữa những cái cá biệt và tổng quát, giữa sự kiện và giải thích theo ý thức hệ. Điều này thực sự quan trọng khi rút ra tiêu chuẩn hành động có tính luân lý và mục vụ từ các lý thuyết và các đề nghị.
c. Điều cần thiết là cần phải quen thuộc với khối lượng dồi dào các giáo huấn của Hội Thánh về truyền thông xã hội, và cần chấp nhận nó một cách tin tưởng và giảng dạy một cách trung thành. Việc dạy bảo này được gom lại trong Phụ lục I gồm một khối lượng lớn tài liệu sẵn sàng để học hỏi và nghiền ngẫm. Trong số các tài liệu quan trọng một giáo sư Công Giáo về truyền thông cần thường xuyên tham khảo: Tông thư Vigilanti Cura của Giáo Hoàng Piô XI về Phim ảnh (1936); hai bài diễn văn về Phim Lý tưởng (1955) và tông thư Miranda prorsus (1957) của Đức Giáo Hoàng Piô XII; Thư của Bộ Trưởng Ngoại Giao gửi Tuần lễ Hội Thảo Nancy (1955); Sắc lệnh (1963); Huấn Thị Mục vụ Communio et Progressio (1971); luật về dụng cụ truyền thông trong Bộ Giáo Luật mới (1983); và các Thông điệp hàng năm của Đức Giáo Hoàng nhân ngày Truyền Thông Thế Giới.
13. Các trợ giúp cần thiết. Thánh Bộ mong muốn rằng trong các khu vực ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, cần soạn thảo và phổ biến những sách thích hợp để dùng trong hai cấp độ đầu tiên về đào tạo truyền thông trong chủng viện. Các sách này sẽ chứa đựng những giáo huấn chính thức của Hội Thánh, cùng với những ghi chú nghiên cứu và thư tịch được tổ chức tốt giới thiệu những tác phẩm đã được xuất bản khắp thế giới về những khía cạnh khác nhau của đề tài liên quan.
CÁC TIÊU CHÍ ĐẶC BIỆT
Trình độ cơ bản: Giáo dục đa phương tiện
14. Mục đích. Nhập môn và đào tạo cơ bản phải khai sáng sinh viên, mài dũa tinh thần phê bình, và định hình lương tâm, để tránh cho họ không trở thành con mồi của những phát biểu hời hợt và sự thao túng của đa phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt khi nó chống lại sự thật và luân lý. Lý tưởng là đào tạo sinh viên chủng sinh một nền tín lý vững chắc và tinh thần khó nghèo, sao cho họ được trang bị tốt “để chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi tiếp nhận [sản phẩm] đa phương tiện truyền thông bằng sự chọn lựa tự do và cá nhân … chọn lấy những gì có giá trị về phương tiện đạo đức, kiến thức và nghệ thuật; tránh những gì có thể gây ra thiệt hại tâm hồn cho mình hay bằng gương xấu, có thể làm người khác lạc đường; kiềm chế những gì gây cản trở truyền thông tốt và những gì thúc giục điều xấu”.[20]
15. Sự phân chia trách nhiệm trong đào tạo. Gia đình,[21]lớp giáo lý[22] và trường học[23], đặc biệt là trường Công Giáo, tiểu học, trung học hay đại học nên phối hợp đào tạo cơ bản tiếp nhận truyền thông, vào thời điểm thích hợp.[24] Ở trường, truyền thông đại chúng nên dạy cùng với môn học khác khi có dịp, hay ít là trong các lớp riêng cho môn truyền thông đại chúng ở trường trung học. Trường hợp sinh viên vào chủng viện mà thiếu đào tạo về lãnh vực cơ bản này, thì chủng viện phải bổ sung cho họ.
Trong bất kỳ trường hợp nào, chủng viện không sắp xếp dạy truyền thông vào giữa khóa của môn học bình thường, nhưng tổ chức khóa học riêng, hội thảo, thực tập[25] và nói chuyện … tất cả được thiết kế để dạy các nguyên tắc và chuẩn mực hữu ích: (1) trong việc giúp chủng sinh có thể tự mình thực hiện các chọn lựa về số lượng hay chất lượng – trong các chương trình học có sẵn cho họ chọn; (2) để đảm bảo chủng sinh sẽ sử dụng thời gian nghe nhìn một cách có lợi và có trách nhiệm, và (3) để chủng sinh thực hành tùy theo trình độ và mức trưởng thành đã đạt được, phán đoán một cách có lý luận các thông điệp và các giá trị về phương diện văn hóa, tôn giáo, tiềm ẩn hay minh nhiên mà các chương trình truyền thông đề ra hay cố tình bỏ qua một cách có hệ thống.
16. Khía cạnh văn hóa. Chủng sinh cần hiểu biết các khía cạnh kỹ thuật của từng môn truyền thông, nếu không họ sẽ không hiểu được “ngôn ngữ” của nó một cách chính xác. Họ cũng nên được dạy cẩn thận về cấu trúc kinh tế, chính trị và ý thức hệ trong khu vực quốc gia hay văn hóa khác nhau, vì nó có thể ảnh hưởng tới đa phương tiện truyền thông xã hội ở bình diện sản xuất, phân phối, tiêu thụ hay chi phối thông điệp phát ra từ các quốc gia và nền văn hóa đó.[26]
Nhận thức thẩm mỹ và văn hóa của chủng sinh cũng cần phải được mài dũa, và như thế, ở những cấp độ khác nhau trong bước đường học hỏi, họ sẽ được huấn luyện để nhận ra và trân trọng những hình thức diễn đạt và truyền thông khác: lịch sử, triết học, văn chương, kịch nghệ, nghệ thuật biểu trưng, âm nhạc; để có thể làm sự so sánh cần thiết những quyển sách thích hợp sẽ được và kiểm tra với đa phương tiện truyền thông mà “môi trường học song hành” trình bày ra cho họ.
Sự đào tạo văn hóa và thẩm mỹ, huấn luyện và tinh luyện thị hiếu của chủng sinh sẽ làm cho họ từ chối một cách tự nhiên sản phẩm được dàn dựng kém văn hóa hay không phù hợp về luân lý.[27] Điều hiển nhiên là một nền tảng thần học vững chắc sẽ là một ích lợi lớn cho chủng sinh.
17. Khía cạnh tôn giáo và luân lý. Khía cạnh tôn giáo và luân lý có tầm quan trọng chính trong đào tạo linh mục tương lai hướng về sự tự do cá nhân, lòng xác tín, làm cho họ trở nên gương sáng về mặt truyền thông đại chúng, làm cho mọi người muốn đi theo họ …
a. Các mặt luân lý của truyền thông đại chúng không nên đơn giản chỉ là giảng dạy luân lý đạo đức, cũng không phải chỉ là nói về luân lý tính dục; mặc dù những hệ quả đặc biệt về vấn đề luân lý tính dục đối với đời sống độc thân không thể bỏ qua;
b. Nhấn mạnh đến mặt tích cực, nên trình bày điều cụ thể và mang tính xây dựng hơn là điều có hại và nguy hiểm phải tránh.
c. Về mặt tốt cũng như xấu, nên chú ý không chỉ những gì ảnh hưởng tới lương tâm cá nhân, mà còn sự phù hợp với xã hội đối với sự chọn lựa của một người và ảnh hưởng của nó đối với xã hội. Chủng sinh cũng phải chú ý tới “phán đoán luân lý” nào thuộc về tuyên bố của huấn quyền Hội Thánh.[28]
18. Sẵn sàng tiếp nhận truyền thông. Chủng sinh cần trở nên quen thuộc với thế giới thực mà họ được giảng dạy về nó trong lớp. Họ cần được huấn luyện để “làm chứng cho một nhân cách trưởng thành và phát triển đầy đủ để có thể đi vào quan hệ với người khác mà không có những e ngại quá đáng hay ngây thơ thiếu khôn ngoan, nhưng với một sự thân ái thanh thản và con tim rộng mở.”[29]Để đạt được các mục tiêu này và đề phòng họ áp dụng cách phòng vệ thái quá và thái độ đóng kín đối với truyền thông đa phương tiện, họ nên làm quen – cá nhân hay theo nhóm – với những bản tin đủ loại do đa phương tiện đưa tới về những thảm cảnh và những vấn đề của thế giới thực bên ngoài:
a. Cần quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác của chủng sinh cũng như về trình độ văn hóa và sự phát triển luân lý họ đã đạt được.
b. Giáo dục để họ biết sử dụng đa phương tiện không phải chỉ cho mục đích giải trí, nhưng tìm kiếm thông tin nhiều hơn, để mở mang trí tuệ, mở rộng tầm nhìn, và đạt được sự phát triển hài hòa văn hóa xã hội. Họ cần được rèn luyện, qua các diễn đàn và các việc thực hành tương tự, để phân tích, thảo luận và phán đoán về những màn trình diễn và thông tin trên đa phương tiện, đặc biệt những vấn đề đang được bàn luận hay gây tranh cãi trong lãnh vực tôn giáo, luân lý và văn hóa;
c. Nhớ tới những tiêu chuẩn khôn ngoan và khổ hạnh luôn được các Đức Giáo Hoàng, Công Đồng Vatican II, và bộ Giáo Luật dành cho những người chuẩn bị đời sống thánh hiến.[30]
19. Sự quân bình cần thiết. Tình huống sẽ nảy sinh các trường hợp cần phải tìm thuốc chữa cho sự lạm dụng hay không sử dụng truyền thông đại chúng. Trong trường hợp này, khóa huấn luyện truyền thông căn bản sẽ được tiến hành trong một bối cảnh kỷ luật cân bằng cá nhân và cộng đồng, được thiết kế để bù cho sự mất cân bằng văn hóa và linh đạo liên quan tới việc sử dụng kéo dài và mất cân bằng truyền thông đại chúng. Thiệt hại cần được sửa chữa có thể phát sinh từ nội dung chương trình chất lượng kém; hay có thể do cung cách trình bày biến “phương tiện” trở thành “thông điệp”.
Để cân bằng việc phí phạm thời gian và đôi khi thậm chí gây tình trạng cô lập bởi những chương trình hời hợt, chủng sinh cần được hướng dẫn để yêu thích và thực hành việc đọc sách, nghiên cứu, thinh lặng và suy niệm. Họ sẽ được khuyến khích và được cung cấp những điều kiện cần cho sự đối thoại cộng đồng và cầu nguyện. Điều này sẽ được dùng để chữa trị sự cô lập và vị kỷ gây ra bởi truyền thông một chiều do những người theo chủ nghĩa vật chất và hưởng thụ tung ra, và sẽ làm sống dậy giá trị tuyệt đối và chân thật phù hợp cho người Kitô hữu và thừa tác vụ linh mục, đặc biệt những giá trị như vâng lời và nghèo khó phúc âm,[31] những giá trị thường bị từ chối và bỏ qua.
Trình độ đào tạo mục vụ
20. Ba mục tiêu. Đào tạo truyền thông xã hội cấp độ hai – đặc biệt về mục vụ – được áp dụng cho mọi chủng sinh không phân biệt họ đang ở những năm triết học hay thần học. Có ba mục tiêu sau đây:
a. Huấn luyện những người có liên quan tới cách thức sử dụng đúng công cụ truyền thông xã hội (nói chung mọi kỹ thuật diễn tả và truyền thông) trong hoạt động mục vụ, khi hoàn cảnh cho phép sử dụng;[32]
b. Huấn luyện để họ trở thành người thầy và người hướng dẫn những người khác (người tiếp nhận truyền thông, nhà giáo dục, mọi người làm việc trong lãnh vực truyền thông đại chúng) bằng giáo lý, giảng thuyết, v.v… và làm nhiệm vụ tư vấn, giải tội, linh hướng.
c. Và trên hết làm cho họ sẵn sàng có những điều chỉnh cần thiết trong hoạt động mục vụ của mình, bao gồm những đòi hỏi do sự hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo và đời sống trong các Hội Thánh địa phương,[33]
trong một thế giới được định hình về phương diện tâm lý và xã hội bởi đa phương tiện truyền thông đại chúng,[34] bởi kỹ thuật tin học và tự động học.[35]
21. Đào tạo thực hành. Chức năng không thể thay thế được của thừa tác vụ lời Chúa trong chức vụ tông đồ của linh mục đòi hỏi linh mục tương lai phải được huấn luyện toàn diện về phương diện lý thuyết và thực hành nghệ thuật nói. Họ cũng cần được chỉ dẫn về cách thức mỗi công cụ truyền thông xã hội tác động (“ngôn ngữ” tương ứng cho mỗi loại phương tiện), và quan hệ của nó đối với “thông điệp” nó muốn chuyển tải, và với các đặc trưng của các thành phần tiếp nhận (“thính giả”) khác nhau.
Điều này đạt được bằng những bài học về phương pháp, sẽ được hấp thu sâu sắc hơn trong những buổi phân tích so sánh và phê bình những chương trình đang diễn ra hay được ghi âm và phát hành.
Và hơn thế nữa, chủng sinh nên được cho các bài tập thực hành, có thể với sự trợ giúp của các chuyên gia bên ngoài, về cách sử dụng thiết bị truyền thông: nói bằng micrô, máy quay phim, để ý đặc biệt đến cử hành các nghi thức phụng vụ, phỏng vấn và được phỏng vấn, viết tin tức và tiết mục đặc biệt, viết kịch bản cho truyền thanh và truyền hình, sáng tác văn quảng cáo. Các buổi thảo luận về những điểm diễn xuất hay và dở của cá nhân sẽ có giá trị.
Về thực hành viết báo, nên sử dụng lợi thế khi làm các báo nội bộ của chủng viện, hoặc báo địa phương dù là tôn giáo hay thế tục. Nên sử dụng phương tiện truyền hình hữu tuyến khi có sẵn ở xứ đạo hay trường học. Chương trình phát hành của chủng viện được đặc biệt khuyến khích khi cần thiết và có thể được trợ cấp, vì nó là những cách thức quí giá để kích thích và thực hành khả năng sáng tạo của chủng sinh.
22. Trợ giúp giảng dạy và mục vụ. Khi thực hành sử dụng đa phương tiện truyền thông, cũng cần chú ý tới những phương tiện và kỹ thuật diễn tả và các hình thức truyền thông khác. Kịch nghệ nổi trội hơn cả trong số những hình thức này. Nên cố gắng giúp các linh mục tương lai hiểu và trân trọng nó, cả khi nó xuất hiện trong chương trình truyền thông đa phương tiện[36]và khi nó có cơ hội thể hiện trong chủng viện. Những hoạt động kịch nghệ trong chủng viện đóng góp rất nhiều vào việc tinh luyện khả năng công diễn truyền thông, và đóng góp nhiều vào hoạt động nhóm.
Có nhiều thứ hay bị lãng quên và không nên đánh giá thấp, truyền thông nhóm, truyền thông thu nhỏ (“minimedia”), và các thiết bị nghe nhìn nói chung – đĩa, cát-xét video và audio, phim đèn chiếu, phim video, với giá thành rẻ và dễ sử dụng, vì vậy rất thuận lợi cho công việc giảng dạy và mục vụ, đặc biệt cho việc dạy giáo lý và sinh động nhóm.
23. Truyền thông đại chúng ảnh hưởng tới con người toàn diện. Để đạt được hai mục tiêu khác của chương trình đào tạo mục vụ, điều quan trọng là không được bỏ qua, ít là những điểm chính, các chủ đề văn hóa xã hội như: kỹ thuật học, viễn tin học (“telematics”), nhân loại học văn hóa, xã hội học, kinh tế học, ký hiệu học (“semiology”), ngôn ngữ học, tâm lý học và khoa sư phạm, v.v…- tùy theo mức độ nó liên quan tới truyền thông con người khi sử dụng truyền thông đại chúng và công nghệ mới.
Đồng thời, cần xem xét các hệ quả tôn giáo, luân lý và mục vụ của công cụ truyền thông xã hội. Thật vậy, cần phải luôn nhớ đến “con người toàn diện” mà truyền thông tác động trong tư cách một cá nhân và một thành viên trong xã hội: trước hết là một con người, sau đó là một tín hữu và là một Kitô hữu. Hội Thánh nghĩ đến việc thăng tiến “con người toàn diện” này, đặc biệt ngày nay, nó là mục vụ đúng nghĩa.[37] Công tác mục vụ linh mục là phải dạy cho con người này thông điệp cứu rỗi một cách dễ hiểu, và động viên học sống theo thông điệp ấy.
24. Môi trường thuận lợi cho truyền thông. Đào tạo lý thuyết và thực hành sử dụng công cụ truyền thông xã hội sẽ được tiến xa nếu có một bầu khí truyền thông thuận lợi trong chủng viện giữa các chủng sinh, giữa chủng sinh với giáo sư. Để đạt được kết quả này, cần có những điều kiện sau đây:
– Chủng sinh cần được giáo dục trong một sự tĩnh lặng nội tâm cần thiết cho đời sống tâm linh và trí tuệ, và tách ra khỏi những tiếng động ồn ào của đa phương tiện truyền thông làm hao tổn sức lực;
– Chủng sinh cần được huấn luyện để tham gia vào đối thoại liên cá nhân và nhóm, trong đó họ được huấn luyện để chú ý sử dụng ngôn từ chính xác, phát biểu rõ ràng và lý luận chuẩn. Điều này được sử dụng để cân bằng tính thụ động xảy ra do tiếp nhận hình ảnh và truyền thông một chiều của truyền thông đại chúng.
– Về phần mình, giáo sư khi dạy truyền thông và những môn học khác phải hết sức cẩn thận diễn đạt rõ ràng, mà không hi sinh tính chính xác khoa học, và họ cần phải sử dụng ngôn ngữ của thời nay chứ không phải của những thế kỷ trước;[38]
– Mọi người có liên quan phải đồng tâm nhất trí xác tín rằng “sự hiệp thông là nền tảng và cùng đích của mọi truyền thông”.[39]
25. Các nguồn hỗ trợ và tài nguyên. Các công trình của những tác giả đang gây tranh cãi cũng nên để cho chủng sinh sử dụng tùy ý, và họ cũng cần được cung cấp các tạp chí, ấn phẩm định kỳ để họ theo dõi được những suy nghĩ và phát triển mới nhất trong lãnh vực truyền thông. Họ cần được hướng dẫn thảo luận phê bình về những bài tiểu luận và những đề nghị được đưa ra trong các ấn phẩm này, đặc biệt là khi đó là điều có thể áp dụng cho hành vi đạo đức – luân lý của tín hữu và con người nói chung, và cho việc thực hành mục vụ.
Hơn nữa, chủng sinh nên được tạo điều kiện dễ dàng khi nhờ đến sự trợ giúp của các chuyên viên bên ngoài, đặc biệt khi họ chuẩn bị và cử hành “Ngày Thế Giới”[40] – khi tiếp xúc với những người làm trong cơ quan truyền thông của tổ chức Hội Thánh: giáo phận, quốc gia và quốc tế (UCIP đối với sách báo, OCIC đối với phim ảnh, UNDA đối với phát thanh và truyền hình), và với những người làm trong lãnh vực này tại nơi làm việc.
26. Khóa học và kiểm tra đánh giá. Chương trình mục vụ đặc biệt này nên được giảng dạy từng phần, khi có cơ hội, và dạy dần dần trong các môn thần học, triết học, xã hội và nhân văn. Tuy nhiên môn học này không nên chỉ được coi như môn học phụ hay tùy chọn; các bài học và bài tập về truyền thông xã hội nên được đưa vào trong khóa học thần học và triết học như một thành phần cấu tạo của khóa, với bài kiểm tra cuối khóa.
Huấn luyện đặc biệt
27. Các ứng viên. “Những người đã làm việc hay đang chuẩn bị làm việc trong ngành truyền thông” và những người tỏ ra có năng khiếu đặc biệt và có thiên hướng” đối với công việc này, không nên bằng lòng với nền giáo dục mục vụ chung cho mọi người trong chủng viện, nhưng nên tìm kiếm cho mình “khóa học đặc biệt thích hợp hơn”.[41]Về phần mình, các bề trên sẽ quan tâm nhận ra những thanh niên này và giúp họ đi đúng đường phát triển của mình.
Được mời gọi vào công việc đào tạo này không chỉ là những người đang chuẩn bị hoạt động trong lãnh vực báo chí hay phim ảnh, phát thanh hay truyền hình, mà cả những người đang chuẩn bị dạy môn này, hoặc điều hành hay cộng tác với giáo phận hay văn phòng quốc gia về truyền thông xã hội.
28. Các trung tâm. Để đào tạo chuyên gia cho những ngành truyền thông này, có các trung tâm được thành lập do sáng kiến của cơ quan của Hội Thánh hay của giáo dân, với mục đích đào tạo toàn phần hay từng phần các kỹ thuật truyền thông xã hội.
Tuy nhiên, các trung tâm và các viện đang hiện hữu của Hội Thánh có thể thiếu hay không đủ thiết bị hay nhân viên giảng dạy đủ trình độ để cung cấp các nhu cầu đòi hỏi, khi đó các chủng sinh hay linh mục đã tham gia thừa tác vụ có thể tìm kiếm những cơ sở phù hợp ở ngoài xã hội, nơi đó họ có thể được đào tạo thực sự chuyên nghiệp.[42]
Thánh Bộ hi vọng rằng, một người tu sĩ được huấn luyện bằng cách này sẽ có ích cho “mọi người thiện tâm… khi sử dụng các công cụ truyền thông xã hội chỉ vì ích lợi cho con người, mà tương lai của họ càng ngày càng phụ thuộc vào việc sử dụng đúng mức (những công cụ này)”, và đặc biệt đó là lúc mà “nhìn về tương lai, Dân Chúa nhận ra với niềm phó thác tuyệt đối và tình yêu cháy bỏng những kỳ quan được hứa hẹn cho họ trong thời đại không gian” điều khiển từ xa.[43]
Từ Bộ Giáo dục Công giáo, Roma, ngày 19.03.1986, lễ kính thánh Giuse
Hồng y WILLIAM BAUM
Bộ trưởng
Tổng Giám mục ANTONIO M. JAVIERRE ORTAS
Thư ký
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM
Chuyển ngữ từ: vatican.va
Nguồn: communication-theology.com
– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –
[1] Cf. Pius XII’s, Miranda prorsus, 24-25.
[2] Cf. Vatican Council II, Dei verbum, 4 and 7.
[3] Cf. Vatican Council II, Inter mirifica, 1
[4] Pius XII, Miranda prorsus, 1.
[5] Pius XI, Vigilanti cura, 1.
[6] Vatican Council II, Inter mirifica, 2
[7] Pastoral Instruction Communio et Progressio, 11
[8] Ibid., 8
[9] Cf. Appendix 1.
[10] Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, 68; cf. Appendix I, no. 18.
[11] Pastoral Instruction Communio et Progressio, 111; cf. Appendix I, no.22.
[12] Communio et Progressio, 183; viết: “huấn thị Mục vụ này đưa ra một vài hướng dẫn sau khi đã cân nhắc tình hình chung đang phổ biến trong truyền thông xã hội. Như mọi điều xảy ra vào lúc này, không cần phải lý luận và trình bày chi tiết nhiều hơn… Hiển nhiên các hướng dẫn và áp dụng thực hành, cũng như hướng dẫn mục vụ phải thích nghi với những điều kiện khác nhau trong những nơi khác nhau – phụ thuộc vào tiến bộ kỹ thuật và tình huống xã hội. Nó sẽ thay đổi tùy theo điều kiện đang thay đổi của phương tiện truyền thông và những luật lệ vốn có… Những người có trách nhiệm lập kế hoạch mục vụ phải uyển chuyển và luôn cố gắng theo kịp các phát minh trong lãnh vực này.
[13] Bản dự thảo thứ hai cho các Giám Mục về văn kiện truyền thông xã hội, được thảo luận trong phòng hội trong phiên họp thứ nhất có tuyên bố sau: “Nesessarium visum est Secretariatus sodalibus peritorum in hac re virorum sententiae obsecundare atque ad designanda nova haec inventa nomen proponere INSTRUMENTA COMMUNICATIONIS SOCIALIS, in posterum etiam in iurisprudentia ecclesiastica et in pastoralibus documentis utendum. Quod nomen, in primis annuit instrumentorum originem cum technicis artibus conexam; deinde actionem instrumentalem qua contentum spirituale, ab auctore humano compositum, aliis communicatur; deinde vim quam celeriter in totam societatem exercet” (Acta Synodalia S.ti Concilii Oecumenici Vaticani II, Vol. V, Periodus Prima, Pars III, p. 375).
[14] Trong chín điều (canons) nói về đề tài (cv. Appendix I, 41) bảy điều sử dụng chính xác từ “công cụ truyền thông xã hội”: 761, 779, 804, 822, 823, 1063 và 1369. Chỉ trong điều 666 và 747 sử dụng từ kém chính xác media.
[15] Những người viết dự thảo hiểu từ xã hội hóa (socialization) theo nghĩa được chấp thuận bởi Gioan XXIII trong thông điệp Mater er Magistra, “Một trong những khía cạnh đặc biệt của thời đại chúng ta là sự xã hội hóa…: con người sống trong một cộng đồng liên hệ với nhau bằng nhiều cách thức tiến bộ, cộng tác với nhau trong nhiều phương cách của đời sống và hoạt động, trong một bối cảnh định chế hóa công hay tư”; từ này sau đó được dùng trong Gaudium et Spes, 6, 25, 24 và 75. Như vậy công cụ truyền thông xã hội được coi như những yếu tố chính trong sự xã hội hóa, đó là một quan điểm, quan điểm khác là sự giao lưu giữa các nhóm con người đã được xã hội hóa mạnh.
[16] Chú ý đã được rút ra từ cách dùng chính xác hơn của hội nghị, không có phản đối cách dùng này, để ngắn gọn, nhiều người thích dùng mass media (và massmediology). Thực sự, cách này được sử dụng trong vài văn kiện như Magisterium và Hướng dẫn này.
[17] Inter mirifica, 16; cf. Appendix I, no.11.
[18] Communio et Progressio, 106 và 111; cf. ibid, no.22.
[19] Hãy luôn nhớ rằng những gì Sắc Lệnh Công Đồng tuyên bố, dạy, hay đề nghị là nói về những công cụ này. Ví dụ: việc sử dụng “các công cụ truyền thông xã hội trong nhiều hình thức làm việc tông đồ”, liên quan tới nhiệm vụ “giảng dạy” (no. 13), và liên quan tới Ngày Thế Giới hàng năm “để củng cố một cách hiệu quả hơn các hình thức tông đồ của Hội Thánh trong lãnh vực truyền thông xã hội” (no.18);
[20] Inter mirifica, 9. Về chủ đề, cf. Appendix I, no 7: 59 sq.: 9: 703; 11: 3, 9, 16; 19; 22:15sq
[21] “Cha mẹ phải quan tâm tới bổn phận coi sóc cẩn thận, để các màn trình diễn, sách vở, tấn công đức tin và luân lý không xâm nhập vào gia đình và cũng không để cho con cái gặp phải những điều này ngoài gia đình của mình” (Inter mirifica, 10). “Cha mẹ và thầy dạy nên thúc giục con cái tự mình quyết định ngay cả khi nhà giáo dục đôi khi dành lấy quyền quyết định cuối cùng” (Communio et Progressio, 67). “Một điều có lợi cho nhà giáo dục là ghi lại một số những chương trình phát, phim, và các ấn phẩm mà giới trẻ họ coi sóc thích. Sau đó họ sẽ thảo luận với chúng và điều này giúp phát triển khả năng phê bình của trẻ. Đối với những sản phẩm khó hay thậm chí gây tranh cãi, cha mẹ nên vào lúc thuận tiện giúp con cái mình khám phá ra các giá trị nhân bản trong sản phẩm và giải thích các chi tiết bên trong bối cảnh chung của tác phẩm” (ibid, 68)
[22] “bổn phận của giáo lý là giáo dục người Kitô hữu phân biệt tính chất và giá trị của những gì được truyền thông đại chúng đưa ra”.
[23] Xem Appendix I, nos. 11: 16-22: 69, 117; 33.
[24] Communio et Progressio, 67; cf. ibid, no.22.
[25] Xem Ratio fundamentalis, no. 89, và Communio et Progressio, 66 (trong Appendix I nos 18 và 22: 66).
[26] “Đào tạo phải bao gồm một sự suy nghĩ thực hành về bản chất đặc biệt của mỗi phương tiện và về chỗ đứng của nó trong cộng đồng địa phương và làm sao để có thể sử dụng nó tốt nhất” (Communio et Progressio, 64)
[27] “truyền thông đa phương tiện có thể đào sâu và làm phong phú văn hóa đương thời… và cũng làm cho nó có thể phục vụ cho những nhu cầu và sự quan tâm khác nhau, bằng cung cách hấp dẫn và chuyên nghiệp, nó có thể tạo ra được kết quả gồm đủ mọi loại cách diễn đạt nghệ thuật. Người ta có thể sử dụng đa phương tiện truyền thông một cách dễ dàng để làm sâu sắc và tinh luyện đời sống văn hóa, bao lâu họ bổ sung việc sử dụng này với sự thực hành suy nghĩ của bản thân và trao đổi quan niệm của mình với người khác” (Communnio et Progressio, 50). “Đa phương tiện là những yếu tố mới trong văn hóa hiện đại … nhưng cùng với việc làm phong phú văn hóa, nó có thể hạ thấp nó. Nó có thể được chơi vì sự vỗ tay khen ngợi của mức văn hóa thấp kém nơi khán giả. Và bởi vì người ta sử dụng nhiều thời gian với nó, nó có thể làm cho con người xao lãng việc theo đuổi văn hóa bậc cao và hữu ích. Chế độ ăn toàn những sản phẩm văn hóa thấp kém trong dân chúng sẽ có khuynh hướng hạ thấp thị hiếu những người đã đạt được một nền văn hóa cao”.
[28] “Sự trung thành với các tiêu chuẩn luân lý… đòi hỏi họ (người tiếp nhận) phải tìm ra không trì hoãn cách thức phân loại do người có thẩm quyền và để lương tâm của mình được hướng dẫn theo” (Inter mirifica, 9). “Phê bình các chương trình phát thanh, truyền hình và phim ảnh là một việc có ích trong giáo dục tôn giáo và văn hóa. Nó giúp cho sự lựa chọn các sản phẩm truyền thông, đặc biệt là đối với gia đình. Kế tiếp theo điều này là sự chú ý đặc biệt đến các phê bình có giá trị thật sự. Những phê bình này bao gồm việc đánh giá giá trị, luân lý và giá trị Kitô Giáo của phim ảnh, phát hình, phát thanh và những bài viết. Những phê bình này được đặt dưới sự coi sóc mục vụ của các giám mục sở tại do một ban được chỉ định” (Communio et Peogressio, 122).
[29] GIOAN PHAOLÔ II, Huấn từ cho nữ tu. L’Observatore Romano, 12th November 1978.
[30] Hãy luôn ghi nhớ, đặc biệt, những tiêu chuẩn được Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI đưa ra trong Sacerdotalis caelibatus, và được Thánh bộ nhắc lại để đưa vào thực hành: xem Appendix I, nos. 4, 16, 23; tổng quát cho sử dụng cá nhân, nos. 7: 154; 8; 12: 4; 17; 39; 41: canon 666.
[31] “Nhiệm vụ của bề trên là phải huấn luyện cho tuổi trẻ sự tin tưởng phó thác vào Đức Kitô và vâng lời thực sự, người đã đòi hỏi sự vâng phục của những người đi theo mình, Người đã tự mình nêu gương nhân đức này và làm cho chính mình trở thành nguyên tắc của sự vâng phục trong chúng ta” (Ratio fundamentalis, no 49). “Hãy để họ học vun trồng tinh thần nghèo khó rất cần thiết trong khi thi hành sứ vụ một cách kiên trì… dù họ không bắt buộc phải từ bỏ của cải vật chất như tu sĩ, nhưng họ nên cố gắng thủ đắc sự tự do thực sự và làm người con ngoan của Chúa, như một người của thần linh, kế thừa tài sản thiêng liêng cần thiết cho mối quan hệ đúng đắn với thế giới và của cải vật chất. Noi gương Chúa Kitô, họ cũng quen với sự từ bỏ những gì là phù phiếm, họ nên có khả năng làm chứng nhân cho tinh thần khó nghèo, đơn giản và khổ hạnh trong đời”.
[32] Xem Appendix I, nos. 7: 151; II: 15; 18: 68; 22: 106 sqq.; 35.
[33] VATICAN COUNCIL II, Ad gentes divinitus, nos. 16, 19, 22; Gaudium et spes, nos. 44, 58, 62; Unitatis redintegratio, nos. 4, 17; Orientalium Ecclesiarum, nos. 4, 5, 6; Pius XII, Encycl. Evangelii praecones, 2nd June 1951: AAS, 43 (1951), pp. 521sqa.; JOHN XXIII, Encycl. Princeps Pastorum, 28th November 1959: AAS, 51 (1959), pp. 843 sqq.; PAUL VI, homily Hi amicti sunt, at canonization of the Uganda Martyrs, 18th October 1964; Insegnamenti, II, pp. 588-589; Motu proprio Ecclesiae Sanctae, 6th August 1966: AAS, 58 (1966), p. 786, III, no. 2; Discourse Greetings to you to the bishops of Asia, 28th November 1970: Insegnamenti, VIII, pp. 1215 sqq.; JOHN PAUL II, Apost. Const. Sapientia christiana, 15th April 1979: AAS, 71 (1979), pp. 472 sqq., 492 (Foreword and art. 68); Discourse Vous êtes to the bishops of Zaire meeting in Kinshasa, 3rd May 1980: Insegnamenti, III, 1, pp. 1084 sqq.; Discourse I am overjoyed, to the bishops of Nigeria, 5th February 1982: Insegnamenti, V, 1, pp. 463 sqq.
[34] “Không có kiến thức này, việc tông đồ hiệu quả không thể thực hiện được trong một xã hội càng ngày càng được định hình bởi đa phương tiện” (Communio et Progressio, 111, điều này gợi nhớ đến Ratio Fundamentalis, par. 4 and no. 88). “Con người hiện đại chìm ngập trong thủy triều truyền thông xã hội khi họ định hình niềm xác tín sâu xa và tỏ thái độ của mình. Đây là niềm xác tín tôn giáo và thái độ thực sự cho dù nó như thế nào”. Nhưng vào ngày 16 tháng 06 năm 1957 CONGREGATION OF THE COUNCIL nêu lên một điểm về vấn đề này: “au sein d’un monde qui se renouvelle, et dont les techniques modernes ont bouleversé la face… d’adapter les méthodes (de l’enseignment religieux) aux conditions psychologiques de l’homme d’aujourd’hui”. PHAOLO VI, trong thông điệp gửi ngày Thế Giới lần thứ 8, 16 tháng năm 1974 (L’Observatore Romano, 17th May 1974), nói về cuộc tìm kiếm phương pháp tông đồ”; và trong bài nói ngày 22 tháng sáu 1974 (L’observatore Romano, 23th June 1974) kêu gọi sự vâng phục đối với “một sự huấn luyện mục vụ: tìm kiếm và đặt câu hỏi làm thế nào để phục vụ hữu hiệu thế giới trong đó chúng ta được kêu gọi và làm việc nhân danh Chúa Kitô; và một sự huấn luyện tín lý… được thích nghi với thời đại, để giúp tiến tới sự am hiểu thế giới tốt hơn”.
[35] “Thế giới truyền thông ngày nay phát triển hết sức phức tạp, sự phát triển mà kết quả tối hậu của nó không thể nào tiên liệu được, và trong thế giới phức tạp này chúng ta gặp không chỉ vài vấn đề, nối kết với sự phức tạp của trật tự thế giới mới về công nghệ thông tin và truyền thông, đan xem với các triển vọng mở ra do sự sử dụng vệ tinh và chinh phục không gian. Chúng ta đang nói về một cuộc cách mạng không những bao hàm sự thay đổi trong hệ thống và kỹ thuật truyền thông mà còn bao gồm toàn bộ thế giới quan văn hóa tinh thần của con người… Báo chí, sách vở, đĩa, phim truyền thanh, truyền hình và máy vi tính phức tạp, những thứ này tiêu biểu cho sự vấn đề quan trọng trong tiếp xúc, có thể nói không phải là duy nhất, giữa người trẻ và thực tại bên ngoài, nơi đó họ sống cuộc sống thường ngày của mình” (GIOAN PHAOLO II, Thông điệp nhân ngày Truyền Thông Thế Giới, 15 tháng tư 1985).
[36] Inter mirifica ‘s (no.14) “Kịch nghệ ngày nay được tiếp cận rộng rãi nhờ phương tiện truyền thông hiện đại” được lặp lại trong communio er progressio (no. 158): “kịch nghệ ngày nay vẫn còn thu hút một số đông khán giả, không chỉ những người đi tới rạp hát mà còn những người theo dõi kịch trên truyền thanh và truyền hình”.
[37] Chính con người phải được cứu thoát: chính nhân loại phải được đổi mới. Vì vậy chính con người là chủ điểm của cuộc thảo luận này, con người toàn diện, với thân xác và linh hồn, tâm hồn và lương tâm, trí tuệ và ý chí” (Gaudium et Spes, 3).
[38] CONGREGATION FOR CATHOLIC EDUCATION, tài liệu về đào tạo linh mục tương lai, ngày 22.02.1976, các số 76, 77.
[39] Communio et Progressio, 8. Note also no.6: “những kỹ thuật tiên tiến này có mục đích cao quí là làm cho con người tiếp xúc gần gũi hơn”; no.11: “Truyền thông còn hơn là diễn tả ý tưởng và tình cảm. Ở mức độ sâu xa nhất, nó là cho đi chính mình trong tình yêu”; no. 73: “Mục đích của truyền thông xã hội là đẩy nhanh mọi tiến bộ và nâng cao sự hợp tác giữa con người cho tới khi đạt được sự thông hiệp với nhau”; và sau cùng, no. 102: “Hội Thánh hi vọng rằng … phẩm giá của con người, cả người truyền thông và người nhận truyền thông, sẽ được hiểu và tôn trọng. Bằng cách này, ảnh hưởng xã hội lẫn nhau làm nên người láng giềng sẽ dẫn đến một sự hiệp thông thực sự.”
[40] Inter mirifica, 18 và Communio et Progressio: “Mọi người tin vào Chúa được mời gọi dùng một ngày đặc biệt trong năm để cầu nguyện và suy nghĩ về tương lai và những vấn đề về đa phương tiện truyền thông. Họ cũng được kêu mời gặp gỡ với mọi ngành nghề khác” (no.100); “Ngày này được lập ra để tôn vinh những chuyên gia truyền thông và kể khuyến khích họ hợp tác” (no. 167). Xem thêm Phục lục I, nos. 18 và 38.
[41] Xem Communio et Progressio, 106 và 111.
[42] Cũng không loại trừ trường hợp “sinh viên Công Giáo có thể tới những trường dạy những môn thực hành, như… đa phương tiện truyền thông, xã hội học tôn giáo ở chừng mực môn này tôn trọng sự kiện … Chính bề trên sẽ sắp xếp điều này, sau khi lấy ý kiến của sinh viên, căn cứ vào nội qui chủng viện và những tiêu chuẩn đặt ra do Đấng bản quyền, người có thẩm quyền quyết định về điều này” (Ecumenical directory, no. 92, 13th April 1970: AAS, 62 [1970], p. 705.
[43] Xem Inter mirifica, 24 và Communio et Progressio, 187.
Nguồn: hdgmvietnam.com